Sự khởi đầu của giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam

Rate this post

Giai cấp tư sản dân tộc, một bộ phận của giai cấp tư sản Việt Nam, ngay từ những ngày đầu trong lịch sử đã thể hiện ý thức dân tộc của mình bằng những việc làm cụ thể, thiết thực.

Sự tiến bộ

Vào cuối thế kỷ 19, người Pháp chính thức bắt đầu khai thác thuộc địa Việt Nam để khai thác tài nguyên và sức lao động của người bản xứ. Tuy nhiên, việc làm này cũng đã mang lại nhiều thay đổi về kinh tế – xã hội. Cơ cấu kinh tế thay đổi rõ rệt. Về nông nghiệp, nhiều đồn điền được thành lập, các công trình thủy lợi được xây dựng, nhất là ở Nam Kỳ và Bắc Kỳ.

Các ngành công nghiệp, nhất là khai khoáng, cơ khí giao thông, vật liệu xây dựng và chế biến lâm, nông, hải sản … bắt đầu hình thành. Các khu công nghiệp khai thác đã hình thành; Đặc biệt, đã xuất hiện các đô thị công nghiệp như dệt Nam Định, cảng biển Hải Phòng, cơ khí giao thông Đà Nẵng, Sài Gòn, Vinh – Bến Thủy.

“Vua” Bưởi tàu Thủy Bạch Thái.
“Vua” tàu biển Bạch Thái Bưởi.

Năm 1906, cả nước có khoảng 200 công xưởng của giai cấp tư sản Pháp. Đáng chú ý là nơi đây có nhiều xí nghiệp của giai cấp tư sản Việt Nam, riêng Sài Gòn đã có 20 xí nghiệp xay xát. Giai cấp tư sản Việt Nam đã thành lập các công ty, tự quản lý và điều hành sản xuất như Công ty Quảng Nam Hiệp Thương, Quảng Hưng Long, Đông Thành Xương, Bạch Thái Bưởi … Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, các ngành công nghiệp phát triển mạnh hơn, quy mô lớn hơn, hiện đại hơn. công nghệ, kể cả của giai cấp tư sản Việt Nam.

Hàng loạt phương tiện mới xuất hiện và được đưa vào sử dụng phổ biến như thông tin liên lạc, giao thông hiện đại (bao gồm cả đường sắt, đường bộ, đường thủy, hàng không). Không chỉ hình thành nền sản xuất công nghiệp với công nghệ, thiết bị hiện đại mà còn đưa ra phương thức kinh tế tư bản chủ nghĩa. Từ đó tác động mạnh mẽ đến quá trình đô thị hóa. Từ cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, các đô thị Việt Nam ra đời và ngày càng phát triển.

Cùng với đó là quá trình tiếp biến – đổi mới / đổi mới văn hóa, giáo dục. Chữ quốc ngữ được phổ biến thay cho chữ Hán. Nền giáo dục Nho giáo lạc hậu bị xóa bỏ và thay thế bằng một nền giáo dục mới – tân học theo xu hướng hiện đại của phương Tây.

Những thay đổi về chính trị, đặc biệt là kinh tế đã tác động đến xã hội Việt Nam, làm nảy sinh các tầng lớp xã hội mới. Giai cấp công nhân hình thành và trưởng thành nhanh chóng không ngừng về số lượng và chất lượng. Tầng lớp tiểu tư sản thành thị ra đời và phát triển nhanh chóng. Riêng năm 1913, có 97.976 học sinh và giáo viên Việt Nam.

Vào cuối Thế chiến thứ nhất, chỉ riêng số học sinh trong các trường học là 68.000 người. Ở nông thôn, ngoài những thành phần nông dân và địa chủ xưa, nay đã có thêm một tầng lớp phú nông – đại diện cho nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ở khu vực truyền thống này.

Điều đáng nói, từ những năm đầu thế kỷ XX, bên cạnh giai cấp tư sản Pháp, Trung Quốc, Ấn Độ còn có sự xuất hiện của giai cấp tư sản Việt Nam. Cùng với sự phát triển của kinh tế thuộc địa, sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, giai cấp tư sản Việt Nam chính thức được hình thành và nhanh chóng trưởng thành.

Giai cấp tư sản Việt Nam nổi lên sau giai cấp công nhân bản xứ vì họ hầu như không có tiền đề kinh tế; Nguồn gốc chủ yếu là thương nhân và một phần là địa chủ, nhất là ở Nam Kỳ, chuyên làm thầu khoán hoặc đại lý cho Pháp; chỉ một số ít đến từ các chủ sở hữu nhỏ. Trong thời kỳ trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, các hoạt động kinh doanh của giai cấp tư sản Việt Nam có thể kể đến như Công ty Quảng Hưng Long, Công ty Quảng Hợp Ích (Bắc Kỳ), Công ty Phượng Lâu (Thanh Hóa), ​​Công ty TNHH Quảng Nam. Công ty (Quảng Nam), Công ty Liên Thành (Phan Thiết) …

Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, hoạt động kinh doanh của giai cấp tư sản Việt Nam mở rộng cả về ngành nghề và quy mô từ xay xát, in, dệt nhuộm, vận tải, sửa chữa cơ khí đến sản xuất sơn, xà phòng. Đường, nước mắm, đồ gốm… Lúc này, giai cấp tư sản Việt Nam chia thành hai dòng, hai bộ phận: tư sản mại bản và tư sản dân tộc.

Bộ phận tư sản mại bản ngày càng đông với tốc độ đầu tư của tư bản Pháp. Các công ty quy mô lớn như Công ty Trí Phú, Công ty Quế Dương ở Hải Phòng, Công ty Dân Phong ở Hà Nội, Công ty Thuận Hóa ở Chợ Lớn bắt đầu xuất hiện. Tầng lớp tư sản thương nghiệp chuyên nhận thầu các công trình công cộng và xây dựng cũng tăng lên nhiều.

Ở Bắc Kỳ, từ năm 1923 đến năm 1927, có 449 nhà thầu nhận 4 triệu phrăng để xây dựng các công trình công cộng. Một số tư sản Việt Nam đã có quan hệ buôn bán với các nước trong khu vực và Pháp. Hàng năm các công ty thương mại này nhập từ 3.000 – 7.000 tấn hàng hóa. Đồng thời tổ chức xuất khẩu nhiều mặt hàng của Việt Nam như tơ lụa, thêu ren, đồ sắt, chè, đường … góp phần kích thích sức sản xuất của người Việt Nam.

Bộ phận giai cấp tư sản dân tộc sau Chiến tranh thế giới thứ nhất có bước phát triển vượt bậc cả về số lượng và thực lực kinh tế. Nhiều cơ sở kinh tế có từ trước Chiến tranh thế giới thứ nhất nay đã tiếp tục phát triển, mở rộng quy mô sản xuất, trang thiết bị kỹ thuật như xưởng sơn của Nguyễn Sơn Hà, xưởng sửa chữa tàu thuyền Bạch Thái Bưởi. dệt của Lê Phát Vinh. Bên cạnh đó, nhiều cơ sở sản xuất mới được thành lập như nhà máy gạc Hưng Ký (Bắc Ninh), nhà máy dệt Vĩnh An (Huế), công ty phát điện của Lê Phát, Phan Tùng Long ở Nam Kỳ …

Tư sản và địa chủ Việt Nam cũng góp vốn thành lập Nhà Ngân hàng Việt Nam. Nhiều đồn điền rộng hàng trăm mẫu, thu hút hàng trăm công nhân của giai cấp tư sản Việt Nam xuất hiện. Một số người còn có cổ phần trong Tập đoàn Cao su Đông Dương.

Tuy nhiên, nhìn chung giai cấp tư sản Việt Nam vẫn phát triển chậm bởi nguyên nhân chủ yếu là luôn bị giai cấp tư sản Pháp và Trung Quốc áp bức. Mặt khác, do mới hình thành nên dù muốn hay không giai cấp tư sản Việt Nam vẫn bị hệ tư tưởng kinh tế của nền sản xuất phong kiến ​​chi phối, tạo nên sức ỳ.

Ý thức dân tộc của giai cấp tư sản dân tộc trong giai đoạn đầu

Sau khi hình thành, giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam đã nhanh chóng xác định được ý thức giai cấp, trách nhiệm của mình đối với đất nước và nhận ra những khó khăn của mình trước tình cảnh bị tư sản nước ngoài áp bức.

Để nâng cao vị thế kinh tế của mình và chống lại sự áp bức của tư bản nước ngoài, giai cấp tư sản Việt Nam đã sớm thành lập các nghiệp đoàn, hiệp hội để bảo vệ quyền lợi của giai cấp tư sản.

Giai cấp tư sản dân tộc đã kêu gọi, khuyến khích người Việt Nam làm ăn, phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa; khuyến khích người dân dùng hàng trong nước để khuyến khích sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Bạch Thái Bưởi không chỉ là người đi đầu trong việc tổ chức vận chuyển, mở xưởng đóng tàu mà còn nổi tiếng với khẩu hiệu “Người Việt đi Việt Nam” trong cuộc chiến thương mại với tư bản Pháp và Hoa.

Chính ông đã đặt tên cho các danh nhân dân tộc như Đinh Tiên Hoàng, Lạc Long, Trưng Trắc, Lê Lợi, Hàm Nghi … cho các con tàu của mình. Giai cấp tư sản Việt Nam cũng thành lập phòng thương mại Việt Nam. Tiếp theo tẩy chay “khách” năm 1919, năm 1923, họ tham gia đấu tranh chống độc quyền cảng Sài Gòn.

Giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam cũng đấu tranh tham gia vào bộ máy chính quyền thuộc địa như Hội đồng quận, Viện dân biểu và tiến hành đấu tranh đòi quyền lợi ở các cơ quan này.

Trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng, giai cấp tư sản Việt Nam đã thành lập báo chí để tuyên truyền cách làm ăn mới và quan điểm chính trị của mình, trong đó góp phần cổ vũ tinh thần dân tộc cho không chỉ giai cấp tư sản. tài sản mà còn của công chúng, nổi bật là tờ báo Đoàn Dân Báo (1912) của Nguyễn Hữu Thủ, Bùi Huy Tín, Khai Hóa (1921) của Bạch Thái Bưởi …

Yêu nước và ý thức dân tộc đã trở thành phẩm chất tốt đẹp của giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam và tiếp tục được phát huy trong hành trình lịch sử của dân tộc hơn một thế kỷ qua. Những tấm gương Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Sơn Hà … vẫn tỏa sáng và đồng hành cùng dân tộc.

Written by 

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *