Chiều 3/8, tại thành phố Hội An (tỉnh Quảng Nam) đã diễn ra Hội thảo về phát triển bền vững đô thị ven biển Việt Nam trong thời kỳ mới. Hội nghị quy tụ 30 chuyên gia, nhà khoa học, lãnh đạo doanh nghiệp bất động sản.
Chủ tịch Hội Quy hoạch Phát triển Đô thị Việt Nam Trần Ngọc Chính cho biết, trên 50% dân số sống ở 28 tỉnh, thành phố ven biển và khoảng 50% các đô thị lớn của Việt Nam tập trung trong vùng. trên bờ biển và trên đảo. Các thành phố biển Việt Nam chỉ mới phát triển gần đây và tập trung ở dải ven biển như thành phố Hạ Long, Hải Phòng, Sầm Sơn, Vinh, Huế, Đà Nẵng, Hội An, Quy Nhơn, Nha Trang, Vũng Tàu….
“Các thành phố biển này đang được xem là thành phố đồng bằng, chưa thể hiện rõ tư duy coi thành phố biển là hạt nhân trung tâm để thúc đẩy phát triển các ngành kinh tế biển”, ông Chính nói.
Theo ông Chính, hiện nay vẫn còn nhiều bất cập trong quá trình phát triển đô thị ven biển Việt Nam. Nhiều dự án tập trung ven biển dẫn đến thiếu diện tích và khoảng cách cần thiết để tạo không gian công cộng cho cộng đồng.
Quy hoạch sử dụng đất chưa sát thực tế dẫn đến tình trạng dự án “treo”, gây lãng phí quỹ đất. Tình trạng ô nhiễm nước biển, nước cửa sông diễn ra ở nhiều nơi; nhiều sự cố môi trường gây thiệt hại rất nghiêm trọng.
Cùng với đó, kết cấu hạ tầng vùng biển và ven biển còn yếu kém, đầu tư manh mún, dàn trải, chưa đồng bộ, thiếu cơ sở hạ tầng lớn, hiện đại dẫn đến hiệu quả thấp, khó tạo đột phá. mạnh mẽ để phát triển nhanh các trung tâm kinh tế biển quốc gia và khu vực, hoạt động theo tiêu chuẩn quốc tế.
3 từ “đa” trong quy hoạch
TS.KTS Ngô Trung Hải – Phó Chủ tịch Hội Quy hoạch Phát triển Đô thị Việt Nam, Tổng Thư ký Hiệp hội Các đô thị Việt Nam cho rằng, các đô thị ven biển có vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội. của đất nước. Các đô thị Việt Nam về cơ bản gắn liền với nước, có thể thấy ở các địa phương như Thừa Thiên – Huế, Đà Nẵng và Quảng Nam.
Tuy nhiên, trải qua quá trình phát triển, các khu đô thị dường như đang quay lưng với sông biển, nhiều nơi bị lấn chiếm, thậm chí trở thành nơi chứa rác thải, ô nhiễm.
Cách tiếp cận đô thị nước và biển ở Việt Nam là cân bằng giữa nước và đất, tức là “âm – dương hài hòa” để không còn tình trạng ngập úng, cạn kiệt nguồn nước ngầm …
Theo tìm hiểu của chúng tôi, Việt Nam có hơn 70 đô thị có thể gắn với hai từ “sông” và “biển”, trong đó hai miền Nam Bắc có thể thấy rõ xu hướng này.
Ngày xưa, để tránh lũ lụt, thành phố cần đắp một con đê. Và ngày nay, theo kinh nghiệm của nước ngoài, điển hình là Hà Lan, họ nghiên cứu xây dựng để thành phố có thể chứa nước, từ đó có thể trữ nước để phục vụ cho nhiều công trình. Đó là bài học cho cách làm quy hoạch thành phố ven sông Sài Gòn và sông Hồng… ”
Để giải bài toán quy hoạch đô thị mặt nước nói chung, đô thị ven biển nói riêng thích ứng với biến đổi khí hậu, ông Hải đưa ra một số giải pháp xoay quanh ba chữ “đa”. Thứ nhất, đa ngành: Tài chính, vũ trụ, khu kinh tế ven biển.
Tiếp theo, đa chiều: Là không gian nước không chỉ ở sông hồ mà còn có nước trên không, nước trong lòng đất.
Cuối cùng là nhiều giai đoạn và tương tác với nhau. Trong suốt chiều dài lịch sử, sự phát triển của các đô thị ven biển và mặt nước sẽ theo từng giai đoạn lịch sử và có sự kế thừa và phát triển những yếu tố tích cực nhất.
Cùng với đó, ông Hải cũng đưa ra những giải pháp cụ thể để xây dựng thành phố nước trong bối cảnh nguồn nước đang bị lãng phí, thậm chí đe dọa sự phát triển của đô thị.
Cân đối vấn đề hoàn thổ. Mỗi m2 lấp hoặc xây bằng vật liệu cứng cần đi kèm với m2 thoáng và thấm nước. Thứ hai, trữ nước là thiết lập không gian cho nước, nhường chỗ cho nước như một chức năng thiết yếu của thành phố.
Thứ ba, tăng khả năng thấm nước tại các khu đô thị bằng công viên, không gian mở, tăng giao thông thủy, giảm diện tích giao thông đường bộ, sử dụng vật liệu dễ thấm tại vỉa hè …
“Thứ tư, sử dụng phương án đê mềm, đê đa chức năng không chỉ chống lũ mà còn có thể hút nước.
Thứ năm, quản lý tổng hợp nước bao gồm lượng nước (ngập úng, giữ nước mưa, thoát nước mặt, tưới tiêu) và chất lượng nước (nước thải, lọc nước…) ”, ông Hải nói.