Nguồn gốc và ý nghĩa của chuông

Rate this post

Theo các ghi chép lịch sử, chuông được sử dụng vào thời nhà Chu (557 TCN – 89 SCN) ở Trung Quốc. Phật giáo Trung Quốc đưa chuông và trống vào tu viện vào năm nào và của ai, chúng tôi chưa tìm được tài liệu nào.

Các nguồn khác nhau cho rằng quá trình chuông vào tu viện và được sử dụng rộng rãi trong các ngôi chùa Trung Quốc vào một thời kỳ không xác định. Tuy nhiên, theo ghi chép lịch sử, chuông đã được sử dụng vào thời nhà Chu (557 TCN-89 SCN) ở Trung Quốc. Phật giáo Trung Quốc đưa chuông và trống vào tu viện vào năm nào và của ai, chúng tôi chưa tìm được tài liệu nào. Tư liệu về lịch sử của chuông và trống Bát Nhã quả thực rất hiếm. Tuy nhiên, chúng tôi dựa vào một số tài liệu sau để truy xuất nguồn gốc tạm thời:

Sách Quảng Hoằng Minh Tập (số 2103) trong Kinh Đại Chánh Tân Tự Đại Đường chép rằng vào thời Lục (420 – 479) có rất nhiều tháp chuông. Năm Thiên Hòa thứ 5 (566) triều Bắc Châu, bài vị Nhị Giáo Chung Minh được khắc trên ba quả chuông đỏ lớn nhất bấy giờ. 2 trong số 3 chiếc này được đúc vào năm 570 và 665 TL.

Trong Cao Tăng Truyện có ghi chép rằng vào năm Tùy Đại Nghiệp thứ 5 (609), ngài Trí Hưng đã coi sóc chuông ở chùa Thiên Định ở kinh đô Trường An. Trong suốt thời kỳ này và sau này, Bắc Châu không ngừng kết hoa hồng để trang trí các tu viện.

Hình minh họa.

Hình minh họa.

Một lần nữa, theo truyền thuyết, hoa hồng chung Nó được khởi xướng bởi Hòa thượng Chí Công và được vua Lương Võ Đế (thế kỷ thứ 6) thực hiện để cầu siêu cho các vị thần sa đọa ở một địa ngục gọi là U Minh địa.

Trong Kinh Kim Cang Chí cũng có ghi: “Vua Hiếu Cao hoàng đế nhà Đường vì nghe lời vu oan của Tống Qủy mà giết nhầm một người hầu trung thành là Hóa Châu, nên khi chết đã thất sủng. Một ngày nọ, một người bị bạo bệnh (chết tức tưởi) mất hồn ở địa ngục đó, thấy một tên tội phạm bị cùm chân, đánh đập, đánh đập rất dữ dội, hỏi ra mới biết đó là vua Hiếu Cao. Nhà Đường, vua cho gọi bạo chúa và nói: “Cảm ơn hoàng hậu đã trở lại trần gian để giúp đỡ hoàng hậu rằng: Hãy đúc chuông để ta cúng dường và làm việc từ thiện. Khi trở lại trần gian, bạo chúa lập tức đến gặp hoàng hậu để truyền thông điệp của vua Hiếu Cao. Nghe vậy, hoàng hậu liền đến chùa Thanh Lương phát nguyện đúc chuông cúng dường và cầu siêu cho Hiếu Cao hoàng đế. (Truyện này có trong truyện Bách Trượng Thanh Quy, trang 68 và 87).

Trong Đường Thi có bài thơ của Trương Kế (thời Thịnh Đường), tả một đêm nằm thuyền nghe tiếng chuông chùa Hàn San vang vọng. Bài thơ là một kiệt tác, liên quan đến chuông, chùa và thời gian, đã gây nhiều tranh cãi và đã có nhiều bản dịch, thiết nghĩ cũng nên chép vào đây:

Trăng đầy sương và sương,

Giang gió lửa cá cho sầu.

Cô Tô ngoài Hàn Sơn Tự,

Dạ bán chung thuyền tao nhã.

Dịch bởi Tản Đà:

Trăng đã tắt, tiếng quạ kêu sương,

Cháy đánh cá, bến cây ngủ vương.

Thuyền ai cập bến Cô Tô,

Nửa đêm, tôi nghe tiếng chuông chùa Hàn San.

Dịch bởi Nguyễn Hàm Ninh:

Quạ kêu, mặt trăng lặn, sương mù,

Ngọn lửa đánh cá le lói trong lòng hồ.

Thuyền ai cập bến Cô Tô,

Nửa đêm, tôi nghe tiếng chuông chùa Hàn San.

Hồ Điệp lại nói:

Khi trăng rơi, quạ kêu sương,

Ngọn cây bến đò còn vương vấn mặt hồ.

Thuyền ai cập bến Cô Tô,

Nửa đêm, tôi nghe tiếng chuông chùa Hàn San.

Ngô Tất Tố dịch:

Quạ kêu, sương lấp lánh, trăng lặn,

Đèn đánh cá, bãi cây, cho người nằm khô.

Ngôi chùa trên núi Cô Tô ở đâu?

Chuông đưa về bến canh khuya.

Trần Trọng Kim dịch:

Quạ kêu, trăng lặn, sương rơi,

Lửa đánh cá, bãi cây, cho người nằm xuống.

Thuyền cập bến Cô Tô,

Nửa đêm, tôi nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn.

Trần Trọng San dịch:

Quạ kêu, trăng giấu sương,

Lửa buồn câu cá Bến Phong.

Cô Tô tiếng chuông đêm,

Chùa Hàn San đi thuyền sông Phong Kiều.

Lý Nhuế Tâm dịch:

Mặt trăng tĩnh lặng và đầy sương,

Ánh sáng của quả cầu báo thức gợn sóng.

Hàn Sơn Tự, đất Tô Châu,

Tiếng chuông đêm khuya vang lên về nơi neo đậu của Phong Kiêu.

Dịch bởi Hữu Nguyên:

Quạ kêu, mặt trăng lặn, bầu trời đầy sương,

Bãi Phong, đèn câu chìm trong mộng.

Đêm Cô Tô vắng, thuyền khách cập bến,

Chuông Hàn San Tử thỉnh thoảng đưa qua.

Huệ Thu dịch:

Mặt trăng chìm xuống và quạ kêu trong sương mù,

Đèn cây im lìm, buồn bã.

Phố Cô Tô ngoài chùa Hàn,

Nửa đêm chuông rơi thuyền đợi.

Hình minh họa.

Hình minh họa.

Vì tiếng chuông không bao giờ reo vào lúc nửa đêm hay lúc nửa đêm, vậy thì tác giả Trương Kế đã sai, nhưng người ta thường cho rằng một nhà thơ phải có lời bình, nốt nhạc, chữ bán da mới hay, nên như sau. người kể chuyện hợp lí với bài thơ:

Có một vị sư trụ trì chùa Hàn San, một đêm mồng 3, mồng 4 ông tự phát thơ:

Nửa đầu của bốn mặt trăng là mơ hồ,

Bán tự túc ngân hàng bán tự túc.

Rồi cạn ý tưởng, loay hoay mãi không tìm được hai cái kết. Cũng trong đêm đó, chú Tiêu đi chơi và thấy trăng ở vũng nước. Khi trở vào, thấy Sư phụ đang ngồi trầm ngâm, bèn thuận miệng hỏi ông lý do. Được anh kể lại, anh nhớ đến mảnh trăng vừa gặp, nửa ở dưới nước, nửa ở trên không, nên tôi xin dâng anh hai câu kết. :

Thùy của chiếc nhẫn ngọc được chia thành hai đoạn,

Bán trầm hương cho, bán phù không.

Thầy cũng tâm đắc với hai câu kết, cả thầy và trò đều hoan hỷ nên vào chánh điện dâng hương tạ ơn trời phật, đồng thời thỉnh chuông nên nửa đêm tiếng chuông vang lên. vươn thuyền của nhà thơ Trương Kế.

Nhà thơ Cao Tiêu đã dịch bài thơ trên:

Trăng non vào ngày thứ tư của ngày thứ ba,

Nửa giống cái móc bạc, nửa như cái nơ.

Ai đã làm đứt một nửa sợi dây chuyền,

Nước in một nửa, nửa bộ trên cao.

Nhưng không phải nhà thơ hay nhà thơ, nhà thơ nào cũng có nhận xét đúng. Cũng trong thơ văn chữ Hán có một giai thoại sau:

Một lần Tô Đông Pha đọc được bài thơ Vương An Thạch – người Giới Phủ – một nhà Nho nổi tiếng, tài cao, giữ chức Tể tướng dưới triều Tống Thần Tông, là người đi trước, làm quan đến chức Tể tướng. tòa, đọc bản án:

Minh Nguyệt Sơn là trưởng nhà nghỉ,

Con chó hoàng gia cắm cúi trái tim hoa.

Tô Đông Pha khi đó đã phê phán là vô lý: trăng sáng sao có thể hát trên đỉnh núi, sao con chó vàng lại có thể nằm giữa hoa? Sau khi phê bình, chỉnh sửa:

Minh nguyệt sơn đầu chiếu,

Hoàng chó ngưu hoàng hoa.

Trăng soi đỉnh núi, con chó nằm trong bóng hoa, câu thơ hay quá!

Về sau, Tô Đông Pha cực lực phản đối Tân luật của Vương An Thạch nên bị đày đến vùng cực nam. Tại vùng đất ấy, Tô Đông Pha biết được có loài chim gọi là “Minh nguyệt” và một loại sâu gọi là “Hoàng khuyển”!

Các loại chuông thường dùng trong chùa, tu viện:

Hình minh họa.

Hình minh họa.

a) Tiếng Phạn tổng quát (chuông tiếng Phạn): Nó còn được gọi là “đại tướng quân”, “hồng chung”, “hoa chung” hay “đồng chung”. Chuông này được đúc bằng đồng xanh có pha ít sắt. Thông thường chuông cao khoảng 1,5m, đường kính khoảng 6cm. Loại này được treo ở gác chuông, mục đích gọi chuông là để tụ họp quần chúng hoặc báo tin sớm tối. Người Việt thường dùng từ “đại hồng chung” chỉ những quả chuông rất lớn, hầu như không có quy định cụ thể về độ rộng hay hẹp nữa. Chuông này còn có tên là chuông U Minh.

b) Bán chung (bán chuông): Vì kích thước chỉ to bằng 1/2 quả chuông Phạn, nên nó được gọi là bán chung, còn gọi là “tiểu chung” hay “tiểu chung”. Chuông này thường được đúc bằng đồng, cao khoảng 6 đến 8 tấc, thường được đặt ở một góc trong chánh điện và dùng trong các buổi hoằng pháp nên còn được gọi là “lễ thường”. Người Việt Nam cũng như các nước khác ngày nay cũng linh hoạt chế tạo nhiều loại chuông “bán chung” nhưng cũng không có kích thước cố định.

c) Nói với họ cùng nhau (chuông cảnh báo họ): Còn gọi là chuông Đường Tăng, tức là chuông nhỏ, chỉ một người khiêng được. Hình dáng giống như đại hồng chung được treo ngoài đường, dùng để thông báo cho Tăng đoàn vào các thời điểm: hội họp đại chúng, chúc thọ, làm việc, cúng bái trong tự viện.

d) Đại phúc (chuông gia trì): Loại chuông này dùng để rung khi tụng kinh, cúng bái. Chuông được sử dụng trước khi tụng kinh hoặc báo hiệu kết thúc thời khóa tụng kinh, niệm Phật. Cũng thường bị đánh đập khi lạy Phật một mình. Và khi có nhiều người, để báo hiệu nhịp cùng cúi chào. Chuông cầu phúc có ba loại lớn, vừa và nhỏ. Chuông vừa và nhỏ thường được các Phật tử tại gia sử dụng nhiều hơn và cũng giống như các nhà sư.

Trong thời kỳ hoàng kim của Thiền tông, chuông được đặt trong thiền đường, hội trường được gọi là “Tăng Đường Chung”, “Trai Chung”; Quả chuông đặt trong chánh điện được gọi là “Đại sảnh chung” … Những người chăm sóc quả chuông này được gọi là “Chung Tou.”

Về việc gọi chuông, trước đây ở Trung Quốc quy định mỗi môn phái, mỗi địa phương có khác nhau, nhưng nhìn chung là 3 tiếng đầu và cuối, 2 tiếng hoặc 3 lần chín tiếng. cho chuông nhỏ khi tụng kinh. Số giờ thường là 18 giờ, đôi khi là 36 giờ, 108 giờ. Đôi khi 108 giờ biểu thị nỗ lực của thiền sinh để loại bỏ 108 loại phiền não bên trong. Mười tám giờ biểu thị sự thanh lọc của 6 giác quan, 6 trần và 6 thức.

Theo niềm tin rằng âm thanh của tiếng chuông có thể chạm đến cõi địa ngục u ám, bất kỳ chúng sinh nào bị rơi xuống địa ngục khi nghe thấy tiếng chuông này ngay lập tức được giải thoát. Lại nữa, tiếng chuông thanh nhã của chùa có thể giúp ngạ quỷ giải trừ tham sân si và giải thoát khỏi kiếp ngạ quỷ. Hiện nay các ngôi chùa Việt Nam cũng như các ngôi chùa cổ của Trung Quốc hay chùa ở các nước Phật giáo Đại thừa như Nhật Bản, Hàn Quốc,… thường có chuông lớn để thỉnh vào buổi sáng và buổi tối khi cầu nguyện. điều ước. Thời gian thỉnh chuông buổi sáng vào lúc 4 giờ hoặc trước giờ nghi lễ buổi sáng tùy theo quy định của từng chùa.

Kệ chuông:

Người gọi chuông vừa bấm chuông vừa đọc câu thơ:

Với mong muốn cố gắng tham gia vào thế giới siêu pháp,

Thiết kế u ám tất cả văn học.

Trần thanh trần minh chứng,

Nhất thiết chúng sinh thành chánh giác.

Bần tiện:

Cầu mong tiếng chuông này vang khắp Pháp giới,

Thiết bị u ám có thể nghe thấy nó,

Cảnh thanh tịnh của nhân chứng,

Tất cả chúng sinh đều trở nên giác ngộ.

(Bản dịch của Hòa thượng Trí Quang – Luật Sa-di, Sād-ni – Viện Phật học Quốc tế ấn hành, 1989).

Bản dịch thơ:

1. Nguyện chuông ngân vang Pháp giới,

Tất cả chúng sinh trong ngục sắt đều lắng nghe.

Tiếng nói của cuộc sống trong sạch, và nó đã được chứng minh là chứng ngộ,

Tất cả chúng sinh đều giác ngộ.

(Như Nhật Từ).

2. Tiếng chuông cầu nguyện vang vọng cõi trần,

Núi Thiết Vị tối tăm âm thanh.

Âm thanh của cuộc sống lặng lẽ hơn,

Chúng sinh giác ngộ, tỏ lòng an lạc.

(Như Nhật Từ).

Written by 

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *