Kỳ tích cho gốm Chu Đậu

Rate this post

Các sản phẩm tinh hoa dưới bàn tay nghệ nhân.
Những sản phẩm tinh túy dưới bàn tay của các nghệ nhân.

Từ một khám phá về chữ ký

Câu chuyện bắt đầu từ năm 1980, gắn liền với tên tuổi của ông Makoto Anabuki. Trong một lần đi công tác ở Thổ Nhĩ Kỳ, anh nhìn thấy một chiếc bình gốm hoa lam được trưng bày tại Bảo tàng Quốc gia Takapisaray ở Istabun. Bình gốm có 13 chữ Hán “Thái Hòa tám niên Nam Sách Châu tượng nhân bồi thị hy bút”. Có người dịch ra tiếng Việt: Năm Thái Hòa thứ 8 (1450) tại Nam Sách lục, thợ gốm họ Bùi vẽ tranh. Người dịch khác: Năm Thái Hòa thứ 8 (1450) ở Nam Sách, thợ gốm Bùi Thị Hỷ viết. Dòng chữ được dịch ra nhiều nghĩa khác nhau đôi khi “làm khó” các nhà nghiên cứu khảo cổ học.

Sau đó ông Makoto Anabuki đã viết thư cho quan tỉnh Hải Hưng và yêu cầu được biết Nam Sách Châu ghi trên bình gốm ở đâu, bà Bùi Thị Hỷ là ai, di tích lò gốm ở đâu?… Tất nhiên là phải khảo sát. . phải được nghiên cứu từng bước một cách khoa học.

Ba năm sau (1983) trong dịp đi học nghề truyền thống ở tỉnh Hải Hưng, vấn đề gốm Chu Đậu có cơ hội được phát huy. Tuy nhiên, phải đến đầu năm 1986, họ mới tổ chức cuộc khai quật đầu tiên. Kết quả ngoài mong đợi. Hóa ra dưới lớp đất phù sa màu mỡ là cả một thế giới gốm sứ mỹ nghệ thế kỷ 14, 16 mà cho đến thời điểm đó chưa từng được khám phá. Đã có 7 cuộc khai quật, trong đó có 2 cuộc liên quan đến Trường Đại học và Viện Khảo cổ học Việt Nam.

Từ các báo cáo kết quả công khai và qua niên giám, thông tin về gốm Chu Đậu đã được lan truyền khắp thế giới. Các đoàn từ Mỹ, Nhật, Úc, Châu Âu và Đông Nam Á đến Việt Nam thăm Chu Đậu. Hóa ra có tới bốn mươi bảo tàng quốc tế lưu giữ và trưng bày gốm Chu Đậu.

Nhiều học giả nước ngoài đã rất quan tâm đến việc khám phá nguồn gốc của một dòng gốm Chu Đậu. Một gia đình ở Thổ Nhĩ Kỳ có hẳn một bộ sưu tập gốm sứ Chu Đậu thu nhỏ. Họ tự in sách, đem về Việt Nam rồi thăm Chu Đậu, tặng cho người Hải Hưng (nay là Hải Dương). Nhiều vị khách nước ngoài không khỏi tự hào khi nhìn thấy di vật gốm sứ đặc biệt này.

Một điều may mắn khác, vào năm 1993 tại eo biển ở Philippines, các nhà khảo cổ đã trục vớt được một con tàu đắm vào cuối thế kỷ 15, trong đó có hàng nghìn hiện vật gốm Chu Đậu. Cùng năm đó, một số ngư dân đã vớt được một số đồ gốm ở vùng biển Cù Lao Chàm, cách đất liền 40 km ở độ sâu 70 mét. Có hàng trăm nghìn hiện vật vẫn còn nguyên vẹn. Các nhà nghiên cứu khẳng định con tàu đắm chủ yếu chở gốm Chu Đậu và suy ra lò nung phải có công suất rất lớn.

Sau khi tìm hiểu lịch sử phát triển của dòng gốm cổ Việt Nam từ các nguồn tư liệu trong nước và quốc tế đã khẳng định giá trị của gốm Chu Đậu là dòng gốm đẹp thế giới thế kỷ 15-16. Thậm chí, ở Anh vào năm 1999, có những hiện vật được đấu giá hơn nửa triệu đô la.

Về gia phả dòng họ Bùi ở Gia Lộc

Theo gia phả họ Bùi ở Gia Lộc: Ông Bùi Đình Nghĩa, quê ở Minh Ngọc, Nam Xang, Bình Lục, tỉnh Hà Nam, sinh năm Đinh Mão thời Trần Đế Hiện Đại Vương. , con của tướng quân Bùi Quốc Hưng, từng thờ Lê Thái Tổ đánh quân Minh. Năm Hưng Khánh thứ nhất (1407), ông di cư đến trang Quang Ảnh (nay là thôn Quang Tiến, xã Đồng Quang, huyện Gia Lộc, Hải Dương).

Nước có giặc, ông tòng quân, chiến đấu ác liệt, hy sinh ở thành Đông Quan. Sau chiến thắng, ông được Lê Thái Tổ xét công trạng, ban tặng 55 mẫu Lộc Điền. Tại trang Quang Anh, cô đã sinh hai con. Con gái lớn là Bùi Thị Hy, con thứ là Bùi Đình Khôi.

Theo gia phả, bà Hỷ là người văn hay, chữ đẹp, có khiếu vẽ. Khi đó, bà Hỷ giả trai để thi vào ba trường thì bị phát hiện đuổi học. Sau này bà lấy chồng ở huyện Thanh Lâm, châu Nam Sách, nhưng không có con. Năm Thái Hòa thứ 10 (1452), bà cùng chồng là Đặng Sĩ chủ lớn về quê cha Quang Anh làm ăn.

Tại đây bà cùng em trai là Bùi Đình Khôi chiêu mộ thợ, xây dựng lò gốm ở phía bắc vị trí thuận lợi qua sông, nơi gần sông Định Đạo thông thương với Nam Sách, làm đồ gốm đặc sản cung đình và bán cho thương nhân. từ các nước phương Bắc, Nhật Bản và phương Tây, trao đổi thổ cẩm, gỗ, vàng bạc, cá và gạo. Trong chiến tranh Trịnh – Mạc, con cháu lưu tán, không sản xuất được. Từ đó, nghề gốm cổ của dòng họ Bùi bị mai một.

Bà Bùi Thị Hỷ mất ngày 12 tháng 8 năm Kỷ Mùi (1499), thọ 80 tuổi. Qua gia phả, bà sinh năm Canh Tý 1420. Khi viết bút tích trên bình hoa năm 1450, bà 31 tuổi. tuổi. Lễ giỗ lần thứ 507 của bà (1499-2006), chính quyền địa phương và dòng họ Bùi đã long trọng tổ chức tại quê nhà, tôn vinh vị tổ nghề gốm mỹ nghệ cách đây hơn năm trăm năm.

Vì sao làng gốm Chu Đậu bị mất? Theo lịch sử, từ thế kỷ 15, đồ gốm đã được đưa vào triều đình và bán cho thương nhân nước ngoài. Rồi chính biến, chiến tranh nên nghề gốm mai một và thực sự lụi tàn vào những năm Trịnh – Mạc phân tranh. Họ Trịnh đem quân đánh vào vùng Nam Sách, là vùng đất cơ bản của quân Mạc. Lò gốm Chu Đậu theo đó cũng bị san phẳng.

Sau 4 thế kỷ bị chôn vùi trong lòng đất và rơi vào quên lãng, đầu những năm 90 của thế kỷ trước, gốm Chu Đậu dần được hồi sinh. Dòng gốm được săn lùng, sưu tầm và sản xuất với phong cách mới. Gốm sứ Chu Đậu được xuất khẩu sang hơn năm mươi quốc gia, như các nước Châu Âu, Nhật Bản, Tây Ban Nha … Và gần trăm quốc gia có mẫu để giới thiệu.

Người có nhiều đóng góp trong công cuộc khôi phục gốm Chu Đậu là nghệ nhân Nguyễn Văn Lưu – Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Gốm sứ Chu Đậu. Cảm ơn chủ trương của Đảng, Nhà nước về việc chấn hưng làng nghề, giữ gìn bản sắc dân tộc và sự động viên, tạo điều kiện của lãnh đạo tỉnh Hải Dương.

Năm 2001, Nhà máy Gốm Chu Đậu (nay là Công ty Cổ phần Gốm Chu Đậu) ra đời. Ông Nguyễn Văn Lưu đã chiêu mộ các nghệ nhân gốm khắp nơi về truyền dạy nghề truyền thống, đồng thời tìm kiếm các họa sĩ, kỹ sư, công nhân làm nghề silicat tại địa phương để xây dựng nhà máy từ đầu. Khó khăn chồng chất khó khăn khi sản phẩm chưa giải được bài toán đầu ra.

Thời gian đầu, doanh nghiệp tạm thời phải đi theo hướng sản xuất để xuất khẩu, sản phẩm được gia công theo đơn đặt hàng, sản xuất hàng loạt với giá rẻ. Vì vậy, dù lửa lò gốm đã đỏ lửa nhưng thương hiệu gốm Chu Đậu vẫn chưa định vị được trên bản đồ gốm sứ Việt Nam và thế giới.

Sau tất cả, ông Nguyễn Văn Lưu vẫn nhớ, yếu tố quan trọng nhất giúp thương hiệu gốm Chu Đậu phục hồi thành công như hiện nay chính là tâm huyết và lòng đam mê của đội ngũ nghệ nhân, kỹ sư trẻ Chu Đậu.

Giờ đây Công ty đã trở thành một trung tâm sản xuất gốm sứ lý tưởng, có cảnh quan thiên nhiên khang trang, sạch, xanh, đẹp, với diện tích vừa sản xuất vừa trưng bày hơn ba ha. Có hàng nghìn mẫu gốm sứ đủ kích cỡ và hình dáng. Dưới bàn tay khéo léo của người thợ, họ có thể làm ra những bình hoa nặng từ vài chục gam, đến những bình hoa Pipa cao 1,6m nặng cả tấn.

Ở Chu Đậu hiện có 3 cơ sở sản xuất: Gốm truyền thống với hàng nghìn mẫu mã khác nhau, gốm mỹ nghệ với hàng trăm họa tiết sinh động và gốm dân dụng đa dạng đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng trong nước. … Làng nghề được hồi sinh đã thu hút nhiều công nhân, lao động có tay nghề cao và giải quyết việc làm cho lao động địa phương, lưu giữ nghề truyền thống.

Đặc biệt, có phòng trưng bày nhiều sản phẩm độc đáo thu hút khách. Nhiều đồng chí lãnh đạo, cán bộ cấp cao đã đến thăm gốm Chu Đậu và lưu bút về những sản phẩm gốm mang đậm hồn cốt Việt. Chu Đậu lặng lẽ cách đây mấy chục năm nay sôi động hẳn lên bởi tình yêu của những nghệ nhân tâm huyết với nghề gốm.

Written by 

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *