Hiểu đúng về “Chánh niệm”

Rate this post

Chánh niệm được dịch từ sammā sati. Sati là chánh niệm. Chánh niệm do người Trung Quốc dịch, và tôi không biết tại sao họ lại dịch nó đúng với từ sati trong pháp thị kiến. Chữ tâm, viết bằng chữ Hán, bên trên là bộ kim, bên dưới là chữ tâm. Kim có mặt; Vì vậy, chánh niệm là (tâm) ghi nhớ những gì đang xảy ra trong hiện tại.

>> Kiến thức

Từ xưa đến nay, trên sách báo, băng đĩa nhiều bài giảng, đến các thiền sư, nhà nghiên cứu ở đây, ai cũng nói về chánh niệm, và nói theo nhiều cách khác nhau.

Chẳng hạn, có người nói: Chánh niệm là tỉnh giác trong giây phút hiện tại! Nếu phát biểu như vậy, thì chánh niệm đồng nghĩa với tỉnh giác là gì? Tại sao họ không nhận thấy rằng, nếu chánh niệm, chánh niệm (sati) liên tục, gắn chặt với điểm liên tục, nó sẽ dẫn đến định? Và định ở đâu trong phạm trù nhận thức, nhận thức là chức năng của trí tuệ!? Đây là sai lầm đầu tiên.

Chánh niệm là chú ý, là chú ý đúng đắn, hoàn toàn, hoàn toàn, trung thực vào một đối tượng, bất kể đối tượng đó đẹp hay xấu, méo mó hay tròn trịa, tốt hay xấu.
Chánh niệm là chú ý, là chú ý đúng đắn, hoàn toàn, hoàn toàn, trung thực vào một đối tượng, bất kể đối tượng đó đẹp hay xấu, méo mó hay tròn trịa, tốt hay xấu.

Một trường hợp khác, có người nói: Chánh niệm là biết hơi thở ra vào, dài ngắn ra sao. Nếu nói như vậy thì chánh niệm đồng nghĩa với trí tuệ, vì trí tuệ là thấy rõ, biết rõ!? Đây là sai lầm thứ hai.

Có người nói: Chánh niệm là tỉnh giác, không quên chánh niệm, biết trọn vẹn tất cả các pháp. Nói như vậy, hóa ra chánh niệm đồng nghĩa với biết – đó là nhận thức hay trí tuệ !? Đây là sai lầm thứ ba.

Sau đó, có người nói khá đúng: Chánh niệm là quán chiếu thân thể cảm nhận tâm trí. Thế mới nói, chánh niệm đồng nghĩa với quán chiếu, chức năng của trí tuệ và sự sáng suốt là gì? Đây là sai lầm thứ tư.

Có người còn đi xa hơn: Chánh niệm giúp chúng ta kết nối với những người xung quanh. Kết nối như thế nào? Muốn kết nối thì phải có tâm khởi, có duyên mới khởi? Ai biết xin chỉ giùm, chỗ này mình nhận. Đây là sai lầm thứ năm.

Một số người nói rằng nó rất “tưởng”, rất tốt: Chánh niệm giúp nhận ra những nỗi đau, nỗi khổ và chuyển hóa chúng. Nếu vậy, chánh niệm đồng nghĩa với tỉnh giác. Định danh là chức năng của tư tưởng đúng đắn và chính kiến; lại nữa, chánh niệm chỉ để bạn cảm nhận giáo pháp trong an lạc, chưa làm gì cả, và nó không có nhiệm vụ “chuyển hóa” khổ đau. Chuyển hóa là biến một thứ thành một thứ khác, đây là nỗ lực của tâm trí có điều kiện, nó chỉ có thể tạm thời đối phó với hoàn cảnh. Còn đối với vấn đề diệt khổ thì hoàn toàn khác. Chỉ khi thấy rõ ràng như thật, khi chức năng giác ngộ (bodhiñāṇa) hay trí tuệ (sambodhi) biết nguyên nhân của đau khổ như thực tế của nó, thì đau khổ sẽ tự chấm dứt, cũng như khi ánh sáng đến, bóng tối sẽ lùi lại (không nói nhẹ). tiêu diệt bóng tối). Đây là sai lầm thứ sáu.

Chánh niệm được dịch từ sammā sati.  Sati là chánh niệm.  Chánh niệm do người Trung Quốc dịch, và tôi không biết tại sao họ lại dịch nó đúng với từ sati trong pháp thị kiến.  Chữ tâm, viết bằng chữ Hán, bên trên là bộ kim, bên dưới là chữ tâm.  Kim có mặt;  Vì vậy, chánh niệm là (tâm) ghi nhớ những gì đang xảy ra trong hiện tại.
Chánh niệm được dịch từ sammā sati. Sati là chánh niệm. Chánh niệm do người Trung Quốc dịch, và tôi không biết tại sao họ lại dịch nó đúng với từ sati trong pháp thị kiến. Chữ tâm, viết bằng chữ Hán, bên trên là bộ kim, bên dưới là chữ tâm. Kim có mặt; Vì vậy, chánh niệm là (tâm) ghi nhớ những gì đang xảy ra trong hiện tại.

Nếu bạn muốn hiểu tất cả những điều này, những sai lầm đó, hãy chịu đựng nó lâu hơn một chút. Khó nghe hơn ngữ nghĩa của chánh niệm.

Chánh niệm được dịch từ sammā sati. Sati là chánh niệm. Chánh niệm do người Trung Quốc dịch, và tôi không biết tại sao họ lại dịch nó đúng với từ sati trong pháp thị kiến. Chữ tâm, viết bằng chữ Hán, bên trên là bộ kim, bên dưới là chữ tâm. Kim có mặt; Vì vậy, chánh niệm là (tâm) ghi nhớ những gì đang xảy ra trong hiện tại. Về nghĩa Pāḷi, sati có một vài nghĩa tương đối chính xác: ghi nhớ, ghi nhớ, ghi nhận – nhưng ngoài ra, nhiều nghĩa khác còn đi quá xa.

Còn samma thì sao? Mọi người dịch sammā là chính, thật, đúng… Vì vậy, ai cũng hiểu sammāsati là chánh niệm về cái chân, cái chính, cái đúng; hoặc ghi nhớ, lưu ý, chú ý đến sự thật, cái chính, cái đúng. Nhưng bây giờ chúng ta thử hỏi, đâu là sự thật, lẽ phải, ngay trong cuộc đời này? Vậy cái xấu, cái ác, cái không phải của Phật tử không nhớ, không ghi chép hay sao? Thực ra, sammā còn nhiều nghĩa khác mà tiếng Hán và tiếng Việt không thể nói hết được. Sammā không chỉ có nghĩa đúng, đúng, mà còn có nghĩa đúng, đúng, đúng, hoàn toàn, hoàn toàn… Hoàn toàn, toàn diện, hoàn toàn… nghĩa là nó được diễn đạt như thế nào. nắm bắt đầy đủ như vậy, không chia nhỏ, phân tích, không đan xen cảm tính và suy nghĩ chủ quan của mình. Vì vậy, ở đây, hiện tại, chúng ta có một định nghĩa đầy đủ nhất về chánh niệm: Chánh niệm là chú ý, chú ý đúng đắn, đầy đủ, toàn diện, đúng với đối tượng, không phân biệt đối tượng đẹp hay xấu. , méo mó hay tròn trịa, thiện hay ác.

Khi có chánh niệm - hoàn toàn chánh niệm - thì ngay lập tức, chánh kiến ​​phát sinh.  Đây là những gì tôi gọi
Khi có chánh niệm – hoàn toàn chánh niệm – thì ngay lập tức, chánh kiến ​​phát sinh. Đây là điều tôi gọi là “chánh niệm tối thượng” bởi vì nó bao gồm chánh kiến.

Tuy nhiên, dù định nghĩa có chính xác đến đâu thì nó cũng chỉ là một khái niệm trừu tượng. Thế nào bây giờ? Làm sao chúng ta có thể có những ví dụ cụ thể để biết, để thấy được chánh niệm? Tôi nhớ có lần ở đâu đó, tôi đã đưa ra ví dụ về người gác cửa. Người gác cổng ra vào phải ghi nhớ, ghi chép. Đúng vậy, chánh niệm là người đứng gác ở cửa của thân và tâm. Bất cứ điều gì, bất cứ pháp nào đi vào, đi ra, thân và tâm đều phải chánh niệm đi qua bạn, bởi vì bạn là người đứng gác ở cửa. Anh chỉ đứng ở cửa và quan sát. Bạn chỉ cần đứng đó và ghi chú, toàn tâm toàn ý vào đó. Đó là tất cả công việc của bạn – không làm nhiệm vụ “nhìn, biết, hoặc phân biệt người này với người kia”.

Tại sao như vậy? Bởi vì nhìn rõ ràng là chức năng của người khác, đó là nhiệm vụ của bạn với chính kiến! Và việc phân biệt nam nữ, kẻ xấu, người tốt là chức năng và nhiệm vụ của người chính trực! Bạn đã thấy nó, bạn đã thấy nó chưa? Mỗi người đều có những chia sẻ riêng về công việc, không được nhầm lẫn với nhau.

Chúng ta có thể lấy một ví dụ khác: Có người cầm gương soi mặt mình. Muốn nhìn rõ mặt thì kính phải được giữ chắc chắn, không bị nghiêng thì hình ảnh hiện ra chân thực. Kiên định, không nghiêng ngả là một phần của chánh niệm vì chánh niệm đưa đến định mà thấy rõ, biết rõ, gương phản chiếu chính sự thật, mới là chánh kiến.

Chánh niệm tối thượng là buông bỏ thân tâm như nó vốn có ... Chánh niệm là trở về với thân tâm, thiết lập (đặt xuống) thực tại của thân-giác-tâm-pháp.
Chánh niệm tối thượng là buông bỏ thân và tâm như nó vốn có… Chánh niệm là trở về với thân và tâm, thiết lập (đặt xuống) thực tại của thân-giác-tâm-pháp.

Đến đây chúng ta có thể thấy rõ sự thật rằng khi có chánh niệm – hoàn toàn chánh niệm – thì ngay lập tức chánh kiến ​​phát sinh. Đây là điều tôi gọi là “chánh niệm tối thượng” bởi vì nó bao gồm chánh kiến.

Đến đây, chúng ta đã hiểu rằng: Chánh niệm tối thượng là buông bỏ thân tâm như nó vốn có… Chánh niệm là quay trở lại thân tâm, thiết lập (đặt xuống) thực tại của thân-giác-tâm-pháp.

Đến đây tôi chợt nhớ đến chìa khóa thiền của Bách Trượng Hoài Hải mà sau này, Vô Ngôn Thông đã kế thừa: “Tâm sở yếu, trí huệ chiếu rọi!”. Cứ để thân tâm an yên, buông xuống, để yên như ly nước trên bàn, đừng khởi tâm suy nghĩ điều gì, thì gọi là “không”, vì lúc đó không có tham, không hận, không si, không không tham, không sân. hiệu quả không si mê (không có sáu nguyên nhân, theo Abhidhamma). Và lúc đó, “trí tuệ tự chiếu”. Không có gì rõ ràng hơn thế.

Khi các đối tượng của thân, thọ, tâm và pháp được thiết lập bởi chánh niệm, chánh kiến ​​xuất hiện, thấy như thật, thấy như thật, hay biết bản chất của tri kiến ​​(yathābhūta ñāṇadassana), mà Thiền tông gọi là “cái thấy. -chữ ký ”sau đó. Tốt xấu, tốt xấu, thanh tịnh đều là pháp thật (chân pháp), tên khác là Hư Không Tánh (thực tướng là không có dấu hiệu tất cả), thì cái gọi là tham, sân, si, ái, ố của chúng ta là hư ảo. . biến, mơ, tại chỗ “như thật” làm sao!

Trong Bát Chánh Đạo, khi chúng ta có khẩu, nghiệp và đời tương đối
Trong Bát chánh đạo, khi chúng ta có khẩu, nghiệp, thọ tương đối “đàng hoàng”, chúng ta chỉ cần dùng tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác để đề ra. Bởi vì chánh niệm đại diện cho nhóm tâm trí (chánh niệm, định tâm), và tỉnh giác đại diện cho nhóm trí tuệ (nhìn, suy nghĩ).

Nói tóm lại, thưa các bạn, trong Bát Chánh Đạo, khi chúng ta đã có khẩu, nghiệp và đời tương đối “đàng hoàng”, chúng ta chỉ cần dùng tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác là có thể lên đường. Bởi vì chánh niệm đại diện cho nhóm tâm trí (chánh niệm, định tâm), và tỉnh giác đại diện cho nhóm trí tuệ (nhìn, suy nghĩ).

Có khi đức Phật không cần nói siêng năng hay siêng năng vì trong chánh niệm và tỉnh giác đã có sẵn “liễu tri thường giác” mà nói như Tổ Huệ Khả là đã có tinh tấn rồi. Vì vậy chánh niệm và tỉnh giác là đủ để đại diện cho Chân lý của Đạo, là chân lý của con đường đưa đến diệt khổ. Chánh niệm và Nhận thức đại diện cho Bát chánh đạo; đó là hành trang, là tiền lương cá nhân của chúng ta để trở về quê hương.

Trích: Ảnh Minh Đức Triều Tâm (Sīlaguṇa-Mahāthera), SÀN RỪNG THƯỜNG NIÊN, Tủ sách Huyền Không Sơn Thượng, Huế (Phật lịch 2558 – 2015)

Written by 

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *