Không có những trận đánh chấn động địa cầu những năm 1930 – 1931 thì không thể có cao trào những năm 1936 – 1939, không có thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và không có Việt Nam hòa bình. thống nhất ngày nay. Xô Viết Nghệ Tĩnh với biểu tượng “Tiếng trống và ngọn lửa năm 30” vang dội trong lòng dân tộc, là cuộc tổng diễn tập và rèn luyện lực lượng đầu tiên cho Cách mạng Tháng Tám năm 1945, không chỉ xứng đáng với danh hiệu “hồng nhan”. , cùng dân tộc Việt Nam viết tiếp bản hùng ca “đỏ” lên một tầm cao mới, liên tiếp đánh bại hai đế quốc vĩ đại nhất thế giới, thu gọn núi sông về một mối, đưa cả nước lên đỉnh cao. ý nghĩa xã hội mà còn để lại những bài học kinh nghiệm quý báu cho công cuộc đổi mới hiện nay.
Phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh (tranh Nguyễn Đức Nùng).
Tháng 9 năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta. Từ đây, nhân dân ta phải sống trong cảnh lầm than, lầm than, lầm than dưới gông cùm của thực dân, phong kiến.
Từ cuối những năm 1920, các nước tư bản lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế trầm trọng. “Trong lịch sử của chủ nghĩa tư bản, cho đến lúc đó, cuộc khủng hoảng 1929-1933 là cuộc khủng hoảng lớn nhất, sâu sắc nhất và có hậu quả lâu dài nhất về kinh tế, chính trị và lâu dài. xã hội ”(1). Để thoát khỏi khủng hoảng, các nước đế quốc không chỉ tăng cường bóc lột sức lao động ở chính nước mình, mà còn cố gắng tạo gánh nặng khủng hoảng cho nhân dân thuộc địa và nửa thuộc địa bằng cách tăng cường bóc lột. bóc lột sức lao động, cướp đoạt tài nguyên … Việt Nam là thuộc địa của Pháp nên nhân dân ta, nhất là công nhân, nông dân là nạn nhân trực tiếp và gánh chịu hậu quả nặng nề nhất. Họ ngày càng bị bần cùng hóa, bị bóc lột dã man trên quê hương mình. Mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp ngày càng sâu sắc.
Giữa lúc đó, ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đáp ứng yêu cầu cấp thiết của lịch sử, kịp thời lãnh đạo các phong trào đấu tranh của quần chúng nông dân ngày càng phát triển. mạnh, trên toàn quốc. Nghệ – Tĩnh là vùng đất giàu truyền thống yêu nước, kiên cường, bất khuất trong chống giặc ngoại xâm. Vinh – Bến Thủy lại là một trong những trung tâm công nghiệp của cả nước, có giai cấp công nhân phát triển cả về số lượng và chất lượng. Tỉnh ủy Nghệ An và Tỉnh ủy Hà Tĩnh sớm được thành lập để lãnh đạo phong trào cách mạng. Đây là điều kiện, tiền đề để phong trào đấu tranh của nhân dân Nghệ Tĩnh phát triển thành đỉnh cao của cao trào cách mạng 1930 – 1931 trong cả nước.
Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Nghệ An, nhân Ngày Quốc tế Lao động 1-5-1930, công nhân Nhà máy Diêm, Nhà máy cưa Bến Thủy và hàng nghìn nông dân vùng ven Vinh – Bến Thủy phấn khởi. biểu tình thị uy, giương cao cờ đỏ, búa liềm, giương cao khẩu hiệu đòi tăng lương, giảm giờ làm, giảm thuế, chống khủng bố chính trị … Đây là lần đầu tiên công nhân và nông dân sát cánh cùng nhau. trong cuộc đấu tranh chống giặc, mở đầu cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh.
Trên đà phát triển mạnh mẽ đó, ngày 1/8/1930 đã diễn ra cuộc tổng bãi công của toàn thể công nhân khu công nghiệp Vinh – Bến Thủy. Người dân huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh kéo ra đường đấu tranh. Ngày 30/8, nông dân huyện Nam Đàn với khoảng 3.000 người đã đến phá các lộ của huyện, thả tù chính trị. Ngày 1-9, khoảng 20 vạn nông dân huyện Thanh Chương đã kéo lên đốt phá huyện lộ, thả tù chính trị, trừng trị bọn phản động ác ôn, đánh dấu một thời kỳ mới, một thời kỳ đấu tranh quyết liệt “vì dân chủ và độc lập dân tộc”. Sau đó, ở khắp các địa phương Nghệ An, Hà Tĩnh diễn ra nhiều cuộc đấu tranh của nông dân dưới hình thức vũ trang biểu tình tự vệ.
Đỉnh cao của phong trào là ngày 12-9-1930, hơn 8 vạn nông dân Hưng Nguyên kéo về huyện lỵ đòi yêu sách, hô vang khẩu hiệu chống đế quốc thực dân, phong kiến. Thực dân Pháp dã man, dùng máy bay ném bom xuống đoàn biểu tình làm hàng trăm người chết và bị thương. Không chùn bước trước bom đạn của kẻ thù, phong trào đấu tranh của nhân dân Nghệ – Tĩnh ngày càng dâng cao, lan rộng ra nhiều địa phương, phát triển thành đấu tranh vũ trang, làm cho hệ thống chính quyền của đế quốc phong kiến tê liệt, tan rã ở nhiều nơi. Trước sự tan rã của chính quyền địch, các chi bộ Đảng và Nông hội đỏ đã chủ động thành lập, điều hành, quản lý mọi mặt đời sống chính trị – xã hội ở nông thôn và thực hiện nhiệm vụ của Chính quyền nhân dân. những người dưới hình thức Xô Viết. Chính phủ Xô Viết đã ban hành và thực hiện nhiều chủ trương, chính sách, đem lại lợi ích chính đáng cho Nhân dân như: Tuyên bố quyền tự do, dân chủ, tổ chức Nhân dân tham gia vào các tổ chức cách mạng, trừng trị bọn phản cách mạng, giữ gìn an ninh trật tự, chia lại ruộng đất công, ruộng đất công cho dân cày, giảm tô, xóa nợ, xóa bỏ thuế má vô lý… cách mạng và tính ưu việt của nó, thực sự là “chính quyền của dân, do dân, vì dân”.
Xô Viết Nghệ Tĩnh đã trở thành nguồn cổ vũ mạnh mẽ cho quần chúng công nhân, nông dân cả nước nổi dậy đấu tranh. Thực hiện chủ trương, lời kêu gọi của Đảng, nhân dân nhiều địa phương trong cả nước tiếp tục vùng lên đấu tranh, chống lại chính sách áp bức, bóc lột hà khắc của chính quyền thực dân, phong kiến, chống khủng bố. trắng ”. .Bình, Hà Nam, Vĩnh Yên, Quảng Trị, Quảng Ngãi … không chỉ thể hiện lòng yêu nước, tình đoàn kết “chia lửa” cùng nhân dân Nghệ – Tĩnh mà còn thể hiện sức mạnh đoàn kết của cả dân tộc Việt Nam chống áp bức , nô dịch của đế quốc và phong kiến tay sai.
Tại Thanh Hóa, dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy Bắc Kỳ, ngày 29-7-1930, Xứ ủy Thanh Hóa được thành lập. Thực hiện nhiệm vụ được Xứ ủy Bắc Kỳ giao, cuối tháng 4-1931, Ban Chấp hành Tỉnh ủy lâm thời tổ chức Hội nghị mở rộng gần bến phà Ghép, phát động đấu tranh hưởng ứng Ngày Quốc tế Lao động 1. – 5 và ủng hộ cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh. Ngày 1/5/1931, tại thị xã Thanh Hóa, cờ Đảng phấp phới trên nóc nhà ga Thanh Hóa và cây đa làng Sĩ (nay thuộc xã Quảng Chính, huyện Quảng Xương). Tờ rơi tuyên truyền cách mạng với nội dung hưởng ứng Ngày Quốc tế Lao động 1-5 và ủng hộ Xô Viết Nghệ Tĩnh được phát ở nhiều nơi có đông người qua lại trên địa bàn thị xã Thanh Hóa và các huyện Thọ Xuân, Yên Định, Vinh. Lộc. Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, một số đảng viên được phân công về các xí nghiệp, đồn điền tổ chức Công hội đỏ, vận động công nhân đoàn kết đấu tranh đòi chủ tăng lương, giảm giờ làm. , đừng đánh, cúp vô lý ”(2).
Trước khí thế sục sôi của cao trào cách mạng và ngọn lửa Xô Viết hừng hực, thực dân Pháp và bè lũ tay sai đã tăng cường đàn áp, thực hiện cuộc “khủng bố trắng” vô cùng tàn bạo, nhấn chìm các phong trào đấu tranh. Những bức tranh về Nhân dân của chúng ta trong một vũng máu. Nhiều cơ sở Đảng bị đàn áp, nhiều Đảng viên và quần chúng cách mạng bị bắt, tù đày, giết hại, nhiều làng mạc bị tàn phá, đốt phá. Cao trào cách mạng 1930 – 1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh chỉ tồn tại không lâu và tạm lắng vào cuối năm 1931.
Phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh là một sự kiện trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tuy mới tồn tại được 7 tháng và còn sơ khai nhưng Xô Viết Nghệ Tĩnh đã để lại những ấn tượng tốt đẹp về nhà nước công nhân – nông dân đầu tiên, chưa từng có trong lịch sử, đáp ứng khát vọng độc lập. thiêu đốt quyền tự do của những người dân mất nước, nô lệ. Quốc tế Cộng sản nhiệt liệt biểu dương và đánh giá cao phong trào. Hình ảnh lá cờ đỏ búa liềm cùng với chính quyền kiểu mới do Nhân dân làm chủ vẫn luôn khắc sâu trong tâm trí quần chúng nhân dân, là biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và khát vọng độc lập, tự do. nung nấu quyết tâm làm cách mạng đến cùng của nhân dân ta.
Cao trào cách mạng 1930 – 1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh có ý nghĩa lịch sử to lớn trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp ở nước ta. Thành công về mặt chiến lược của Đảng thời kỳ này là đã thực hiện được liên minh công nông, liên minh chiến đấu, liên minh của đông đảo đồng bào Việt Nam, làm cho đế quốc khiếp sợ. Đánh giá cao ý nghĩa lịch sử to lớn của cao trào cách mạng 1930 – 1931, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Dù đế quốc Pháp đã dập tắt phong trào ấy trong biển máu, nhưng Xô Viết Nghệ Tĩnh đã thể hiện bản lĩnh và năng lực cách mạng vẻ vang của nhân dân lao động Việt Nam tuy phong trào thất bại nhưng đã hun đúc nên sức mạnh cho Cách mạng Tháng Tám thắng lợi sau này ”(3).
Cao trào 1930 – 1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh đã để lại bài học lớn về sức lôi cuốn, tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân của Đảng ta bằng đường lối, chính sách và khẩu hiệu đấu tranh. đúng đắn, đáp ứng nguyện vọng cháy bỏng của Nhân dân. Sự lãnh đạo của Đảng được thực hiện đầy đủ, mặc dù Đảng còn rất non trẻ. Ngay từ thuở sơ khai, Đảng ta đã giúp Nhân dân cảm nhận được quyền lợi cơ bản, cấp thiết của mình bằng những chủ trương, khẩu hiệu đúng đắn giành độc lập thoát khỏi ách nô lệ, giành lại ruộng đất, nhà máy. công nhân, nông dân thực hiện các quyền dân chủ, dân sinh cơ bản đầu tiên …, từ đó khơi dậy và phát huy động lực cách mạng trong Nhân dân.
Ngày nay, trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, thực hiện chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, việc hoàn thiện các chủ trương, đường lối, chính sách, cơ chế phù hợp với xu thế. Phát triển thời đại và nguyện vọng, lợi ích thiết thực, chính đáng của Nhân dân để tạo thành động lực và sức mạnh tổng hợp cho sự nghiệp đổi mới là nhiệm vụ cấp bách và to lớn của Đảng và Nhà nước ta. Đảng Cộng sản Việt Nam phát huy những giá trị cao quý, xác định đoàn kết dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là nhiệm vụ hàng đầu, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách mạng của Đảng: Dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở liên minh của giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo. Đã 92 năm trôi qua, bài học về khối đại đoàn kết toàn dân, của khối liên minh công nhân trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh vẫn luôn là ngọn lửa cho sức mạnh Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay.
(1) Viện Sử học Việt Nam (2017), Lịch sử Việt Nam, tập 9, từ năm 1930 đến năm 1945, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.27.
(2) Hội Khoa học Lịch sử Thanh Hóa (2020), 90 năm Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa (1930 – 2020): Những ấn tượng và thành tựu nổi bật, Nxb Thanh Hóa, tr.71.
(3) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1969, tr.9.
PGS. PGS.TS Hoàng Thanh Hải