Thành công của Thủy lợi là tầm nhìn trong quy hoạch

Rate this post

PV: Vậy công tác quy hoạch phải đáp ứng những vấn đề gì để phát triển kinh tế – xã hội nhanh và bền vững, thưa Thứ trưởng?

Thứ trưởng Bộ NN & PTNT Nguyễn Hoàng Hiệp

Thứ trưởng Bộ NN & PTNT Nguyễn Hoàng Hiệp

Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Hiệp: Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 13 của Đảng ta đặt ra mục tiêu phát triển đất nước “nhanh và bền vững”, trong đó nhấn mạnh đến công tác thủy lợi và phòng, chống thiên tai: “Chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, quản lý , khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm hiệu quả và bền vững tài nguyên thiên nhiên ”.

Trong khi biến đổi khí hậu, biến đổi tài nguyên nước, thiên tai cực đoan đang tác động tiêu cực đến thủy lợi và phòng, chống thiên tai, cần phải đánh giá, nhận diện và dự báo đầy đủ các tác động này. khả năng chủ động ứng phó trong mọi tình huống.

Các vấn đề phát triển thượng nguồn trên các lưu vực sông quốc tế như xây dựng thủy điện, chuyển nước trên lưu vực, thay đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp và phát triển cơ sở hạ tầng, khai thác quá mức tài nguyên trong nước ảnh hưởng rất quan trọng đến công tác phòng chống thiên tai và thủy lợi, đòi hỏi một quy hoạch tổng thể, đồng bộ với các quy hoạch cơ sở hạ tầng khác để giải quyết các thách thức.

Ngoài ra, hệ thống công trình thủy lợi, công trình phòng, chống thiên tai được xây dựng nhiều năm đã xuống cấp, không đảm bảo công suất thiết kế, chủ yếu phục vụ một mục đích duy nhất … cần được nâng cấp, sửa chữa, hiện đại hóa để thích ứng với những thay đổi. về nguồn nước, thiên tai đồng thời đảm bảo yêu cầu phục vụ đa mục tiêu, nhất là tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng phát triển hàng hóa tập trung. vừa, nâng cao giá trị gia tăng, hoàn thành chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.

Như vậy, vấn đề đặt ra hiện nay là quy hoạch thủy lợi và phòng, chống thiên tai đi sau hay trước quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội từng tỉnh, quy hoạch liên tỉnh, vùng? Theo tôi, đã là ngành “dịch vụ” để các ngành khác phát triển bền vững thì quy hoạch thủy lợi và phòng, chống thiên tai phải đi trước một bước.

PV: Thưa Thứ trưởng, trong quy hoạch thủy lợi và phòng, chống thiên tai, khó khăn nhất là gì?

Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Hiệp: Chúng ta cần xác định những tồn tại, thách thức và dự báo tác động đến thủy lợi và phòng, chống thiên tai. Trong đó, khó nhất là tầm nhìn trong quy hoạch.

Chúng ta phải dự báo các xu hướng và kịch bản sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thủy lợi và phòng, chống thiên tai. Trong đó các xu hướng phát triển, xu hướng của tài nguyên nước và các tác động cụ thể như: Dự báo định hướng phát triển kinh tế – xã hội; dự báo xu hướng nguồn nước; tác động của thiên tai, hiện tượng thời tiết cực đoan đến tính bền vững của hệ thống kết cấu hạ tầng thủy lợi; thay đổi cơ cấu sản xuất, dự báo các vấn đề hạ thấp kênh, sụt lún đất. Ngoài ra, phải đánh giá xu hướng tiến bộ khoa học công nghệ và khả năng ứng dụng …

Đây là những thách thức trong quy hoạch thủy lợi hiện nay đòi hỏi chúng ta phải có đánh giá chính xác và đây cũng là khó khăn nhất, nếu đánh giá đúng thì có quy hoạch đúng và ngược lại …

Như vậy, bài toán đầu vào, các kịch bản phát triển cần được tính toán kỹ lưỡng.

Quy hoạch tổng thể phòng, chống thiên tai giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đưa ra 4 kịch bản: Kịch bản cơ sở, Kịch bản phát triển nhanh và bền vững, Kịch bản phát triển cao và Kịch bản cực đoan.

PV: Vậy Thứ trưởng có thể nêu rõ những giải pháp chủ yếu để đáp ứng các kịch bản trên?

Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Hiệp: Có hai giải pháp chính là giải pháp công trình và giải pháp phi công trình. Trong đó, đối với thủy lợi, cấp nước, chống hạn, thiếu nước, xâm nhập mặn … tần suất cấp nước 85% cho khoảng 3,2 triệu ha lúa, tỷ lệ 90 – 95%. cây trồng cạn ước tính đến năm 2050 là 600 nghìn ha; cung cấp đủ cho chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản tập trung; tạo nguồn cung cấp cho sinh hoạt, đô thị, công nghiệp … cấp nước cho đồng bào vùng cao, hải đảo đông dân cư, kiểm soát mặn, cải thiện ô nhiễm nguồn nước trong hệ thống thủy lợi.

Tổng nhu cầu sử dụng nước hiện nay khoảng 101 tỷ m3 / năm, cân đối nước thiếu hụt khoảng 8,3 tỷ m3 / năm. Dự báo đến năm 2030, theo các kịch bản cần từ khoảng 111 tỷ đến 128 tỷ m3 / năm, đến năm 2050 cần từ 130 tỷ đến 155 tỷ m3 / năm; lượng nước thiếu hụt tương ứng với hai thời kỳ này là từ 8,6 – 12,7 tỷ m3 / năm và từ 10,6 – 12,7 tỷ m3 / năm.

Vì vậy, cần phải xây dựng mới các hồ chứa thủy lợi, đập dâng, trạm bơm và nâng dung tích chứa của các hồ chứa hiện có để tạo và bổ sung nguồn nước. Ngoài ra, cần đấu nối, điều tiết, chuyển nước, đưa nước đi xa để đáp ứng yêu cầu sử dụng nước cho các vùng khó khăn về nguồn nước. Nghiên cứu xây dựng các công trình khắc phục, hạ thấp mực nước dòng chính, kiểm soát nước cửa sông lớn.

Mặt khác, cần nâng cấp, cải tạo hệ thống thủy lợi, khắc phục tình trạng công trình xuống cấp, không đảm bảo công suất thiết kế và yêu cầu thực tế; cải thiện tình trạng ô nhiễm nguồn nước tại các công trình thủy lợi.

Ngoài ra, tập trung xây dựng và triển khai 3 chương trình cấp nước sạch nông thôn; cấp nước cho sinh hoạt và sản xuất trên các đảo đông dân cư; phát triển hệ thống các hồ chứa nhỏ, phân tán để tạo nguồn nước sinh hoạt và tưới cho cây trồng cạn ở các vùng khan hiếm nước, trung du và miền núi (Trung du miền núi phía Bắc, Duyên hải miền Trung, Đông Nam bộ) và vùng ven biển ( Duyên hải Nam Trung bộ, Đồng bằng sông Cửu Long).

Cán bộ, công nhân Công ty Bắc Hưng Hải đang kiểm tra hệ thống cống máy bơm. Ảnh: Văn Lụa

Cán bộ, công nhân Công ty Bắc Hưng Hải đang kiểm tra hệ thống cống máy bơm. Ảnh: Văn Lụa

Đối với công tác phòng, chống lũ, lụt và các loại hình thiên tai, cần nâng cấp, củng cố hệ thống đê sông (gần 1.400 km đê sông ở các vùng, đặc biệt là Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ từ Hà Tĩnh trở vào) đến khắc phục tình trạng thiếu cấp, chất lượng xuống cấp,… đảm bảo phòng, chống lũ với tần suất quy định.

Củng cố, nâng cấp hệ thống bờ bao, đê bao phù hợp để bảo vệ đời sống nhân dân, hạ tầng đô thị, sản xuất tập trung … ở những vùng chủ động tránh lũ chính vụ (miền Trung, Tây Nguyên) hoặc chủ yếu là sinh hoạt chung với lũ (Đồng bằng sông Cửu Long). Nạo vét, cải tạo các kênh, tuyến, tiêu lưu, cửa sông, … đảm bảo thoát lũ thuận lợi trên các sông lớn, chống xói lở lòng sông, bờ sông, cửa sông.

Cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới các công trình kiểm soát lũ đầu kênh, ven sông lớn và công trình kiểm soát triều cửa sông. Củng cố, nâng cấp hệ thống đê biển (hơn 3.400 km đê biển và đê cửa sông) từ Quảng Ninh đến Kiên Giang theo tiêu chuẩn thiết kế để bảo vệ người dân và cơ sở hạ tầng trước thiên tai từ biển.

Cập nhật, xác định các khu vực có nguy cơ cao xảy ra lũ quét và sạt lở đất, nhất là các tỉnh miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ và Nam Trung Bộ; xây dựng, củng cố các chốt bảo vệ dân cư, cơ sở hạ tầng và các công trình sản xuất ở những vùng có nguy cơ cao.

Thứ trưởng Bộ NN & PTNT Nguyễn Hoàng Hiệp làm việc tại Bắc Kạn Ảnh: backan.gov.vn

Thứ trưởng Bộ NN & PTNT Nguyễn Hoàng Hiệp làm việc tại Bắc Kạn Ảnh: backan.gov.vn

Ngoài các giải pháp công trình trên, chúng tôi còn xây dựng các giải pháp phi công trình như: Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách có liên quan.

Củng cố, kiện toàn tổ chức quản lý, khai thác công trình thủy lợi, cơ quan quản lý đê điều, cơ quan phòng, chống thiên tai các cấp. Điều tiết hiệu quả các hồ chứa thượng lưu theo quy trình vận hành liên hồ chứa phục vụ đa mục tiêu. Xây dựng và triển khai các giải pháp quản lý rủi ro hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn, lũ, lụt, bão, mưa lớn, lũ quét, sạt lở đất …

Ngoài ra, cần tăng cường quản lý, bảo vệ chặt chẽ hành lang bảo vệ các công trình thủy lợi, lòng sông, không gian thoát lũ …

Ngoài ra, các biện pháp từ xa như: Bảo vệ, phát triển và nâng cao chất lượng rừng; bố trí dân cư và sản xuất hợp lý, thích ứng với điều kiện nguồn nước, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai gây ra; nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, tăng cường hợp tác quốc tế …

Written by 

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *