Sống trên “Biển bạc” vẫn chưa thoát nghèo

Rate this post

: Cần chính sách “ba con cá” * PV:

Ông từng nói: dù mưu sinh trên “biển bạc” nhưng ngư dân chúng tôi vẫn chưa thoát nghèo? Đó có phải là cách nói chung chung về thực trạng đời sống ngư dân cũng như nghề khai thác thủy sản của Việt Nam hiện nay? – PGS. PGS.TS Nguyễn Chu Hồi:

Ở nước ta, biển đã gắn liền với đời sống của người dân và sự phát triển của đất nước từ xa xưa.  Việt Nam là quốc gia có vùng biển rộng lớn, giàu tài nguyên thiên nhiên;  Kinh tế biển được chú trọng phát triển, trong đó, thủy sản là ngành kinh tế biển truyền thống, gắn liền với đời sống của người dân ven biển, trên đảo và sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

: Cần có chính sách tam cá – Ảnh 1.

Sống trên biển bạc vẫn chưa thoát nghèo.

: Cần có chính sách tam cá – Ảnh 1.

Thủy sản cũng được coi là ngành kinh tế tiên phong trong hội nhập, đóng góp quan trọng vào thị phần xuất khẩu của cả nước và tạo trụ cột đảm bảo an sinh xã hội. Tuy nhiên, dù mưu sinh trên “biển bạc” nhưng ngư dân ta vẫn chưa thoát nghèo, “biển vẫn nghiệt ngã” với họ, sinh kế của ngư dân không bền vững, ngư dân có nghề nhưng làm theo kinh nghiệm truyền thống. ..

* Có thể nói, sau hơn 30 năm đổi mới, kinh tế thủy sản tăng trưởng liên tục và khá ổn định, kể cả trong thời kỳ đại dịch xảy ra, nhưng sự tăng trưởng đó chưa ảnh hưởng nhiều đến đời sống lao động của nghề cá, nhất là đối với ngư dân. Đây có phải là một “nghịch lý” cần giải quyết để duy trì sự ổn định trong chuỗi cung ứng thủy sản?

– Thời gian gần đây, ngư dân nước ta tiếp tục đối mặt với hàng loạt khó khăn, thách thức do số lượng tàu nằm bờ tăng dần, đến nay là 40% -45%, cá biệt có một số địa phương, số lượng tàu đánh bắt. tàu thuyền ngày càng nhiều. chỉ còn 10%.

Nguyên nhân dẫn đến việc tàu nằm bờ có nhiều, khách quan có, chủ quan, nhưng đáng chú ý là nguồn lợi hải sản của vùng biển nước ta đã giảm rõ rệt so với trước năm 2010. Các ruộng cá tôm bấp bênh do biến động. khí hậu và sự mất dần các hệ sinh thái cơ bản như rạn san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn; Đại dịch Covid-19 đã tác động mạnh đến nghề cá và kinh tế thủy sản, dẫn đến thiệt hại; Ngoài ra, còn phải bù lại giá nhiên liệu tăng cao, chi phí đầu vào cao nên thua lỗ; …

* Nghị quyết số 36-NQ / TW năm 2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam, mục tiêu đến năm 2030, các thành phần kinh tế biển đóng góp khoảng.  10% GDP của cả nước;  Kinh tế 28 tỉnh, thành phố ven biển ước đạt 65% - 70% GDP cả nước.  Chúng ta cần làm gì để thực hiện mục tiêu này?

Thực tế, các vùng biển của nước ta trong bối cảnh Biển Đông và cam kết của Chính phủ về đưa lượng phát thải ròng về 0, thích ứng với biến đổi khí hậu, … đòi hỏi các bộ, ngành, địa phương phải cụ thể hóa và hiện thực hóa các chủ trương, giải pháp, bám sát các mục tiêu của nghị quyết và thứ tự ưu tiên để đảm bảo tính khả thi của các hành động theo lộ trình.

Sống trên biển bạc vẫn chưa thoát nghèo.

: Cần có chính sách tam cá – Ảnh 2.

Sống trên biển bạc vẫn chưa thoát nghèo.

: Cần có chính sách tam cá – Ảnh 2.

Tàu cá vỏ thép công suất lớn của ngư dân Quảng Nam vươn khơi bám biển Ảnh: TRẦN THƯƠNG

Sáu hành động sau đây có thể là nhóm giải pháp tổng thể hướng tới phát triển bền vững kinh tế biển trong Nghị quyết số 36, đó là: Bảo tồn vốn tự nhiên biển; Bảo tồn đa dạng sinh học, hệ sinh thái biển và các giá trị dịch vụ của chúng; Bảo vệ môi trường biển khỏi bị ô nhiễm và suy thoái; Thực thi hiệu quả và hiệu quả các luật và chính sách hàng hải; Phát triển kinh tế biển hiệu quả và bền vững; Tuyên truyền đầy đủ về phát triển bền vững kinh tế biển trên cơ sở kinh tế biển xanh và phát huy các giá trị văn hóa biển đặc trưng của Việt Nam, cũng như 17 mục tiêu phát triển bền vững, trong đó có mục tiêu số 14 (SDG14) về sử dụng bền vững biển và đại dương, ..

Ngoài ra, cần tập trung phát triển hiệu quả và bền vững các ngành kinh tế biển truyền thống (du lịch biển, dầu khí và khoáng sản khác, cảng – hàng hải, khai thác và nuôi trồng trên biển). , các khu kinh tế – công nghiệp biển – ven biển …) trên cơ sở tăng trưởng xanh. Phát triển kinh tế biển xanh dựa trên cơ sở bảo tồn đa dạng sinh học; hệ sinh thái biển và bảo vệ môi trường biển được coi là “chất xúc tác” để phát triển bền vững kinh tế biển.

Ngoài ra, cần chú trọng phát triển sớm theo lộ trình: công nghiệp dược biển; kinh tế đô thị biển (đô thị ven biển, đô thị hải đảo, đô thị nổi); nuôi biển công nghệ cao và bền vững (nuôi biển); câu cá giải trí vùng biển – ven biển – đảo (câu cá giải trí, câu cá giải trí, nuôi cá giải trí, câu cá giải trí, …). Hỗ trợ cho các định hướng phát triển trên là làm tốt công tác bảo tồn biển, giảm thiểu rác thải biển, trong đó có rác thải nhựa đại dương; quy hoạch không gian biển quốc gia và phân vùng chức năng sử dụng biển, hoàn thiện thể chế kinh tế biển bền vững; tăng cường kiểm soát, giám sát của Nhà nước đối với các vùng biển và hải đảo.

* Với nghề khai thác quy mô nhỏ, trang thiết bị lạc hậu, trên 80% tàu thuyền hoạt động đánh bắt gần bờ, theo ông, chúng ta cần làm gì để có thể vươn xa, bám biển lớn?

– Chuyện nghề cá nước ta cần vươn ra “biển lớn” đã làm được. Trên thực tế đã hình thành và phát triển song song ngành thủy sản nước ta: nghề khai thác nhỏ – nghề truyền thống và nghề cá thương phẩm (nghề cá lớn). Đặc biệt, ngành thủy sản (nghề cá) biển của nước ta được cấu trúc bởi ba nhóm chiều rất cốt lõi, là ba mặt của bài toán “tam cá”: ngư dân, ngư trường và ngư trường.

Hai loại hình thủy sản và ba vấn đề nêu trên về bản chất có mối liên hệ với nhau, nhưng từ trước đến nay chúng thường được giải quyết khi chúng tách biệt, tách rời, chia cắt, thiếu đồng bộ, lệch pha, …; khi kết hợp. Vì vậy, các chính sách đã ban hành và thực hiện chưa hiệu quả, chưa đạt được hiệu quả như mong đợi. Có lẽ, cần xây dựng và thực hiện các chính sách theo cách tiếp cận tổng hợp, liên ngành, liên vấn đề, liên cơ quan, có mục tiêu. Ở cấp quốc gia, cần: Ban hành cơ chế, chính sách riêng để phát triển thủy sản lớn và nhỏ hiệu quả, bền vững, không để lẫn lộn hai đối tượng chính sách này; ban hành các chính sách riêng để giải quyết đồng bộ 3 vấn đề: ngư dân, ngư trường và ngư trường; hướng tới nghề cá bền vững và có trách nhiệm.

Ba vấn đề này có mối liên hệ hữu cơ, có những ràng buộc cố hữu, … đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách, hoạch định chiến lược phải cân nhắc. Đặc biệt, ba vấn đề này không chỉ tạo ra tác động trong phạm vi ngành thủy sản mà còn góp phần thúc đẩy sự hiện diện dân sự và thực thi chủ quyền dân sự của Việt Nam ở Biển Đông trên cơ sở nghề cá bền vững. , nhiệm vụ.

Kinh nghiệm từ Indonesia

Một số nước Đông Nam Á như Indonesia có thế mạnh về lĩnh vực đánh bắt và nuôi trồng thủy sản.

Indonesia được mệnh danh là “Đất nước vạn đảo” với khoảng 17.508 hòn đảo và 54.716 km đường bờ biển. Vì vậy, ngành đánh bắt và nuôi trồng thủy sản ở nước này rất phát triển. Theo thống kê của tổ chức nghiên cứu Statista (có trụ sở tại Đức), Indonesia tiêu thụ hơn 40 kg cá trên đầu người mỗi năm và là một trong những quốc gia phụ thuộc vào cá nhiều nhất trên thế giới. Dữ liệu sơ bộ từ Statista cho thấy ngành thủy sản đóng góp gần 3% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Indonesia, tương đương 469,6 nghìn tỷ rupiah (31,6 triệu USD), vào năm 2021. Trong khi đó, tổng giá trị xuất khẩu cá tươi của Indonesia năm 2021 đạt 118,67 triệu USD. . Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc (FAO) cho biết, đánh bắt và nuôi trồng thủy sản ở Indonesia được chia thành hai phân khúc chính: quy mô nhỏ và quy mô lớn. Phân khúc quy mô nhỏ được chia thành các ngành thủ công và thương mại, trong khi phân khúc quy mô lớn về cơ bản được gọi là thủy sản công nghiệp. Đối với mặt thương mại, ngư dân thường sử dụng tàu lớn gắn máy, lưới cỡ vừa. Họ mang theo nhiều loại ngư cụ khác nhau, từ loại truyền thống dùng trên thuyền buồm đến loại hiện đại như lưới kéo, lưới vây, dây câu … Đặc biệt, ngư dân Indonesia ngày càng quan tâm đến ngư cụ. HAM MÊ). Đáng chú ý, Indonesia là một trong những nước sản xuất cá ngừ chính trên thế giới và nghề nuôi trồng rong biển đã phát triển mạnh trong những năm gần đây. Phần lớn hải sản đánh bắt được tập trung tại các cảng cá, bao gồm 6 cảng lớn, và 14 cảng nhỏ ở Java, 2 cảng nhỏ ở Sumatra, 1 cảng nhỏ ở Bắc Sulawesi và 1 cảng nhỏ ở Đông Nam Sulawesi. Chính phủ Indonesia đã khuyến khích khu vực tư nhân thành lập các hiệp hội đánh bắt và nuôi trồng thủy sản, thành lập các ủy ban như Ủy ban Cá ngừ, Ủy ban Tôm và Ủy ban Rong biển vào năm 2004. Hãng tin Deutsche Welle (Đức) cho biết, Indonesia đặt mục tiêu đưa ngành này phát triển bền vững đến năm 2025. Tính đến nay, Indonesia đã trợ cấp cho lĩnh vực đánh bắt và nuôi trồng thủy sản nhiều hơn các nước đang phát triển. khác (hơn 932 triệu USD năm 2018). Ngoài ra, trang Mongabay.com hồi tháng 1 năm nay tiết lộ Indonesia đang có kế hoạch mở cửa trở lại lĩnh vực này cho đầu tư nước ngoài để tăng trữ lượng hải sản, đồng thời ban hành nghị định quản lý dựa trên hạn ngạch. bắt.Pham NghĩaXem Báo Người lao động số ra ngày 15/8

Written by 

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *