“Nam Xang tứ hùng” là ai vùng đất Nam Xang sinh ra từ Văn Lang, nay thuộc tỉnh nào?

Rate this post

Về phía đông, Nam Xang giáp sông Hồng, nơi cách đây hơn 1.000 năm Triệu Quang Phục – tướng của vua nhà Lý – khi đó là vị vua thứ 10 trong các triều đại vua Việt Nam đã chiếm tổng Yên Trạch (nay thuộc xã Bắc Lý). ). ), Phủ Nam Xang như một vành đai bảo vệ căn cứ đầm Dạ Trạch chống quân Lương xâm lược.

Mối liên hệ này đã để lại cho nơi đây những lễ hội riêng và làn điệu hát Lải Lèn – một phong tục thờ thần độc đáo còn tồn tại đến ngày nay.

Đó là hành cung của các vua nhà Lý (nay thuộc xã Phú Phúc) để cày ruộng Tích và xem việc gặt lúa để động viên việc tang. Nơi nhà Trần lập kho đánh giặc Nguyên Mông ở làng Trần Thương (xã Trần Hưng Đạo) lập đền thờ “hình người thờ tướng quân”.

Con sông Long Xuyên chảy qua Yên Trạch cũng là con đường thủy mà vua Lê Thánh Tông chinh phạt Chiêm Thành, thông qua thượng đình là đèo Cầu Không đã ban tặng cho người dân nơi đây một bảo vật độc nhất vô nhị là Bắc Bộ Kinh. Vật lý. Cũng tại vùng đất này có những câu chuyện kỳ ​​lạ, dân gian gọi là “Nam Xang tứ quái” – (4 chuyện lạ).

1. Câu chuyện đầu tiên trong “Nam Xang tứ quái” kể về cô gái My E.

Theo tài liệu sớm nhất là Việt Cung U Linh do Lý Tế Xuyên soạn vào thế kỷ 14 cho biết: Dưới triều Lý Thái Tông, vua Champa tiếp tục quấy phá lãnh thổ, vua tự chinh, vua Chiêm chết trận. . Vương phi và thê thiếp bị bắt làm tù binh, đưa về Đại Việt. Đến khúc sông Hồng thuộc Lý Nhân, vua nghe tin Mỵ Ê triệu xuống thuyền rồng hầu rượu. E của tôi từ chối và rơi xuống sông để tiết.

Ở nơi bà ngoại tôi, những đêm vắng lặng, trăng sao sáng, thường nghe tiếng đàn bà khóc. Dân làng cho đó là chuyện lạ nên dâng sớ lập đền thờ.

Bỏ qua câu chuyện chiến tranh, bỏ qua những chuyện hoang đường, ma mị, để thấy thẳng rằng Mỵ E chỉ là một người đàn bà mất chồng, mất nước, phải dìm mình xuống sông để làm tròn đạo lý của mình.

Nhân dân thời Lý vốn sùng đạo Phật nên thấm nhuần tình người, lòng nhân ái, có “lệ làng” (hương ước) trên cơ sở Nho giáo với nhiều quy định chặt chẽ trong việc giáo dục đạo đức con người, đặc biệt là các Bà, các cô. Công việc của E phù hợp và nằm trong tiêu chuẩn đó nên mọi người rất tôn trọng và tôn thờ chị. Bà Mỵ Ê “xa lạ” với người xưa và vì thế cũng “xa lạ” với Năm Xang.

Quang cảnh Đền Trần Thương (huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam). Ảnh: TS

2. Câu chuyện thứ hai trong “Nam Xang tứ quái” hẳn không còn xa lạ với nhiều người, đó là câu chuyện về công chúa họ Vũ ở làng Vũ Điền (xã Chân Lý).

Bà tên là Vũ Thị Thiết, người con gái Năm Xang nhu mì, hiền hậu, dung nhan xinh đẹp. Lấy chồng, một người chồng gia trưởng, đa nghi, cô luôn giữ nề nếp để không xảy ra bất hòa.

Vì chiến tranh nên chồng bị gọi nhập ngũ. Vợ chồng hương lửa lâu ngày chưa chia lìa nỗi nhớ nhung da diết. Bài ca ngất ngưởng của nữ thần Vũ Thị Thiết có những câu ca về giữ gìn lòng trung thành, nỗi nhớ chồng da diết: “Duyên phận sao mà chóng vánh. Chiếc chiếu rồng chợt thấy chàng gọi Trương Sinh. Hãy tạm gác lại tình trong chén. quan hà đã tan vỡ Trường quay thắp đuốc đào Rồi buộc chặt khóa cấm ra vào Định Ninh một dạ vững chãi Thờ cha mẹ là niềm tin hão huyền, Phòng không chỉ là những tháng năm Nghe đến tiếng chim hót, em nhớ chồng bây giờ ”.

Những ngày tháng tủi thân chờ chồng, chỉ vì vuốt ve con, chị chỉ vào bóng con trên tường nói rằng đó là bố. Là bóng hay là hình, mẹ dỗ con hay tự dỗ dành mình để rồi từ đó nỗi oan ập đến khi ngày đoàn tụ cha con. Như đã nói ở trên, xã hội phong kiến ​​trọng nam khinh nữ chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo nên trinh tiết là điều người phụ nữ cần giữ gìn nhất.

Người phụ nữ vô kỷ luật là điều mà xã hội phong kiến ​​xếp vào loại phụ nữ xấu và bị trừng trị nghiêm khắc. Nhưng ở đây, Vũ Thị Thiết vì những lời nói vô tội của người bạn đời đa nghi của chồng đã không cho cô nói ra sự thật, buộc cô phải dùng cái chết để minh oan.

Nhân dân thương tiếc người con gái nhân hậu, đức độ nên lập đền thờ. Truyện của nàng còn được chép lại từ sách truyền kỳ, chép lại các bài thánh vịnh của vua Lê Thánh Tông, được nhiều khách nho nhã, văn chương đồng tình và khen ngợi, tạo nên một dòng thơ về Vũ Thị Thiết. Truyện “Thiếu nữ Nam Xang” vì thế đã trở thành truyện “lạ” của vùng Nam Xang.

3. Câu chuyện tiếp theo trong “Nam Xang tứ quái” là ngôi miếu thờ thần bắt rùa (thuộc bộ rùa) ở thôn Tế Xuyên, xã Đức Lý.

Xã nằm bên sông Long Xuyên, dưới sông có một con sông rất lớn, tàu thuyền đi qua không may gặp nạn thì đâm chìm, mất người, mất tài sản. Vua thấy vậy liền treo thưởng, ai bắt được sẽ được thưởng.

Thuở ấy, ở làng Tế Xuyên có một người đàn ông có sức khỏe vô song, tài lặn sâu dưới nước đã xung phong đi bắt giải. Anh ta mang theo hai con dao nhọn và một cuộn dây điện. Anh ta buộc một đầu dây vào mình, đầu còn lại cho những người mạnh mẽ trên bờ giữ lại và nói: Khi tôi lặn xuống sông mà chui vào bụng con hổ, tôi sẽ dùng dao đâm chết nó.

Nếu thấy nó vật vã vì quá đau, mọi người phải nhanh chóng kéo nó lên và lấy dao rạch bụng nó để lôi tôi ra. Mọi người đồng tình nên đã sờ xuống sông để tôi tìm rồi lặn xuống cố tình để cháu bé nuốt chửng.

Ở trên bờ, mọi người thấy sợi dây chuyển động mạnh liền kéo vào bờ, nhanh chóng rút dao rạch bụng cứu nạn nhân. Nghe tin, vua sai ông về kinh, hỏi ông muốn nhận phần thưởng gì, ông cho biết công việc này của nhiều người nên chỉ xin vua cho dân mang nước mắm – đặc sản của đất ra. của Tế Xuyên đến kinh đô để bán. Nhà vua đồng ý và từ đó hình thành phố Hàng Mắm ở kinh đô Thăng Long xưa.

Hành động dũng cảm của ông được nhân dân ghi nhớ và sau khi mất, ông đã lập đền thờ bên bờ sông Long Xuyên và gọi là đền thờ vị thần giải hạn.

Đền Bà Vũ ở làng Vũ Điền, xã Chân Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà. Ảnh: Bình Nguyên

4. Vùng đất Cầu Không (xã Bắc Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam) có nhiều giai thoại nên câu chuyện thứ 4 trong “Nam Xang tứ quái” cũng ra đời từ đây.

Đó là câu chuyện về lăng mộ hoàng đế dưới Cầu Không – cây cầu xây theo kiểu “thượng hạ kiều”, nay đã được thay thế bằng cầu bê tông cốt thép bắc qua hai bờ sông Long Xuyên.

Theo truyền thuyết, vào một ngày nọ, khi đang dậm chân ở gầm cầu, ông bỗng thấy một chiếc ngai vàng nổi lên. Anh định ngồi xuống nhưng sợ quá nên ngai vàng từ từ chìm xuống.

Người thợ dậm thấy lạ kể lại cho dân làng nghe thì ai cũng nói rằng ở đó có mộ vua vì mộ này là để an táng, ứng với câu “Đầu gối núi Đọi, chân Tuấn Vương, phát tích đế vương, lưu truyền ngàn đời. của nhiều thế hệ. ” và cho rằng khi ông ấy ngồi vào thì con cháu sau này sẽ được hưởng phúc.

Ông tiếc nuối đi hỏi mọi người cách tìm mộ hoàng đế, cho đến một hôm có một ông lão râu trắng nói với ông: Mỗi lần đi chợ Cầu, thấy người mặc áo lam thì mời về nhà. Nếu hắn chăm sóc và đối xử tử tế với hắn, hắn sẽ điểm huyệt cho hoàng thượng.

Sau khi biết mộ mà đưa mộ cha về đó thì con cháu mới được hưởng phúc. Theo lời kể của cụ già, người đàn ông đi chợ nhưng không tìm thấy người mặc áo xanh, khi đi đến gần cầu Khống thì thấy một bé trai mặc áo xanh đang ngồi ở đó.

Sau đó ông mời cậu bé về nhà và dặn dò vợ con hãy nuôi dưỡng và chăm sóc cậu thật tốt. Nhưng được vài tháng, thấy cậu bé không nói gì, lại tốn kém chi phí nên ông đã nghĩ ra cách để thử cậu bé. Ông nói với cậu bé rằng ngày mai có đám giỗ, cả nhà sẽ đi làm lễ giỗ cậu bé. Cậu bé phải ở lại trông nhà.

Sáng hôm sau, nấu cơm đầy đủ cho cậu bé rồi cả nhà kéo nhau về. Người đàn ông đi một đoạn đường về phía sau và nấp vào một nơi khuất để theo dõi cậu bé. Thấy cậu bé trong bếp mang ít rau ra sân và nói: Hôm nay cả nhà đi vắng, các anh tranh thủ cho em xem.

Thế là mấy ông đầu rau cứ bày ra những thứ cho cậu bé xem. Hồi lâu, thấy gần bóng, chàng trai ra lệnh cho các đầu bếp rau củ vào bếp không cho vật nữa. Khi người dậm thấy vậy, anh ta rất mừng vì đúng là thần thánh, liền chạy ra quỳ dưới chân chàng trai van xin chỉ ra phần mộ của hoàng đế. Chàng trai áo xanh chỉ nói một câu “Hạnh phúc gia đình anh hết rồi” rồi biến mất.

Những câu chuyện này đã trở thành giai thoại ở vùng Nam Xang xưa, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam ngày nay. Qua câu chuyện, chúng ta có thể thấy được một phần lịch sử cũng như tư tưởng nhân văn sâu sắc và cao cả của người dân nơi đây. Những câu chuyện trong “Bộ tứ” cũng nêu cao tinh thần dũng cảm và gửi gắm những ước nguyện sâu xa về một cuộc sống bình yên, thịnh vượng lâu dài của người dân vùng đất Kinh kỳ xưa.

Chuyên mục được thực hiện theo Đề án hỗ trợ thông tin, tuyên truyền về dân tộc – tôn giáo đến năm 2021

Written by 

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *