Khung pháp lý để ứng phó với thiên tai và sự cố

Rate this post

Theo đánh giá của các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, phòng thủ dân sự là một bộ phận quan trọng của bảo vệ Tổ quốc; Trước những diễn biến khó lường, phức tạp của thiên tai, dịch bệnh, những thay đổi của tình hình thế giới và khu vực hiện nay, việc ban hành Luật Dân quân tự vệ là hết sức cần thiết nhằm khắc phục những hạn chế. , sự bất cập của phòng thủ dân sự hiện nay; tạo điều kiện thuận lợi để chủ động phòng, chống, ứng phó thiên tai, sự cố, bảo đảm an ninh, an toàn, bảo vệ lợi ích của đất nước và nhân dân.

Tuy nhiên, các đại biểu cũng đề nghị tiếp tục nghiên cứu, rà soát, làm rõ phạm vi điều chỉnh để phù hợp với nội dung dự thảo luật và quy định về phòng thủ dân sự tại Điều 13, Luật Quốc phòng cũng như các quy định khác về phòng thủ dân sự. các quy định của pháp luật khác về phòng thủ dân sự, tránh mâu thuẫn, chồng chéo với phạm vi điều chỉnh của các luật có liên quan.

* Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương: Phòng thủ dân sự là bảo vệ Tổ quốc từ xa

Phòng thủ dân sự là một bộ phận của phòng thủ đất nước nhằm bảo vệ Tổ quốc từ xa, từ xa theo quan điểm của Đảng ta, trên cơ sở kế thừa những bài học và chiến lược bảo vệ Tổ quốc từ khi đất nước chưa lâm nguy trong lịch sử. đất nước và nền bảo vệ Tổ quốc của nhân dân Việt Nam.

Luật Quốc phòng năm 2005 đã tạo cơ sở pháp lý ban đầu cho hoạt động phòng thủ dân sự. Luật Quốc phòng năm 2018 tiếp tục kế thừa và tạo khuôn khổ pháp lý chung cho hoạt động phòng thủ dân sự được tổ chức, triển khai trên thực tế.

Phòng thủ dân sự là một nội dung quan trọng trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân và là một trong những nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của phòng thủ Tổ quốc, phòng thủ quân khu và khu vực phòng thủ.

Theo quy định tại Điều 13 Luật Quốc phòng 2018 hiện hành, hoạt động này đang được thực hiện theo Nghị định số 02/2019 của Chính phủ và các quy định của pháp luật có liên quan.

Trước tình hình thế giới, khu vực thời gian gần đây diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, chịu tác động của nhiều nhân tố ngày càng gia tăng, diễn biến phức tạp, gây thiệt hại lớn về người và tài sản, chẳng hạn như đại dịch. Mặc dù có đại dịch Covid-19 vừa qua, nhưng các hoạt động phòng thủ dân sự đã huy động và sử dụng cơ bản, hiệu quả các nguồn lực, bảo đảm phòng ngừa, cảnh báo, ứng phó kịp thời, khắc phục hậu quả, hạn chế thấp nhất thiệt hại về người, tài sản của Nhà nước và nhân dân …

Tuy nhiên, quá trình triển khai còn nhiều vướng mắc, hạn chế, bất cập về thể chế, năng lực dự báo, cảnh báo rủi ro thiên tai; di dời dân khi có thiên tai, sự cố; thông tin, tuyên truyền, phổ biến kiến ​​thức cho người dân; Sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương, trang bị, phương tiện của lực lượng chuyên trách là cần thiết, vì vậy cần xây dựng Luật Dân quân tự vệ để nghiên cứu, khắc phục những tồn tại, hạn chế nêu trên nhằm thể chế hóa đầy đủ quan điểm của Đảng, các quy định của Hiến pháp, bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống pháp luật và tính khả thi.

* Trưởng ban Công tác đại biểu Nguyễn Thị Thanh: Cần thiết phải ban hành Luật Dân quân tự vệ.

Tôi rất đồng tình với việc cần thiết phải ban hành Luật Dân quân tự vệ như những luận điểm trong Tờ trình của Chính phủ.

Tôi cho rằng đây là đạo luật quan trọng, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động phòng thủ dân sự, vừa bảo đảm khuôn khổ pháp lý, vừa đảm bảo sát thực tế đã diễn ra trong thời gian qua, nhất là thời gian gần đây.

Tôi thấy rằng phạm vi điều chỉnh của luật này rất rộng. Vì vậy, tôi đề nghị rà soát kỹ hơn để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất nhưng không chồng chéo một số luật như: Luật Phòng, chống thiên tai; Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm; Đạo luật Phòng cháy và Chữa cháy; Luật Lâm nghiệp; Luật bảo vệ môi trường…

Đặc biệt, về lực lượng dân phòng tại Điều 42. Điều 42 của dự thảo luật quy định lực lượng dân phòng, trong đó nòng cốt là Quân đội nhân dân, Công an nhân dân, dân quân tự vệ. cảnh vệ cùng với lực lượng chuyên trách của các bộ, ngành và lực lượng rộng rãi toàn dân tham gia.

Tôi nhận thấy, Luật Quốc phòng quy định lực lượng nòng cốt gồm dân quân tự vệ, công an xã, phường, thị trấn; lực lượng chuyên trách hoặc kiêm nhiệm thuộc Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và các Bộ, ngành Trung ương tại Khoản 3 Điều 13.

Có nghĩa là, Luật Quốc phòng đã quy định rõ từng loại lực lượng nòng cốt. Vì vậy, tôi đề nghị cần làm rõ sự khác biệt trong quy định về lực lượng nòng cốt và dân phòng trong dự thảo luật này với Luật Quốc phòng.

* Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga: Tạo điều kiện thuận lợi để chủ động phòng, chống, ứng phó thiên tai, sự cố

Tôi ghi nhận những nỗ lực của Ban soạn thảo và đánh giá cao Báo cáo thẩm tra, tuy mới được thẩm tra sơ bộ nhưng khá chi tiết và đầy đủ.

Tôi đồng tình với việc cần thiết phải ban hành Luật Dân quân tự vệ vì những lý do như trong Tờ trình của Chính phủ. Việc ban hành luật nhằm thể chế hóa đầy đủ đường lối, chính sách của Đảng trong việc xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp luật thống nhất về phòng thủ dân sự, khắc phục những hạn chế, bất cập hiện nay về phòng thủ dân sự do phòng thủ dân sự gây ra. chưa được quy định đầy đủ trong luật, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chủ động phòng, chống, ứng phó thiên tai, sự cố, bảo đảm an ninh, an toàn, bảo vệ lợi ích của đất nước và nhân dân.

Luật này có nội dung liên quan đến 86 văn bản quy phạm pháp luật gồm Hiến pháp, 47 bộ luật và luật, pháp lệnh, 26 nghị định của Chính phủ và 13 quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Luật Dân quân tự vệ ban hành không thay thế các văn bản này và được áp dụng trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật không có quy định.

Do có sự giao thoa của quá nhiều luật, tôi đề nghị Ban soạn thảo tiếp tục rà soát toàn diện, kỹ lưỡng các quy định của Luật Dân quân tự vệ để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật, tránh chồng chéo, mâu thuẫn; đặc biệt là các quy định về xác định cấp độ thiên tai, sự cố, thẩm quyền công bố, hủy bỏ cấp độ thiên tai, sự cố, tình trạng khẩn cấp và hoạt động phòng thủ dân sự khi có trường hợp khẩn cấp. rủi ro thiên tai, sự cố … Việc đảm bảo tính thống nhất của dự thảo pháp lệnh với hệ thống pháp luật là rất quan trọng.

* Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa – Giáo dục Nguyễn Đắc Vinh: Xác định rõ trách nhiệm khi đối phó với thảm họa, sự cố

Tôi quan tâm đến điều 41 dự thảo luật cơ quan chỉ đạo, chỉ huy phòng thủ dân sự. Hiện nay, chúng tôi giao cho Bộ CHQS tỉnh, cơ quan quân sự các nơi là cơ quan thường trực về phòng thủ dân sự. Có ít nhất 2 trường hợp cần xử lý thảm họa, sự cố là thiên tai, dịch bệnh. Hiện nay, đối với thiên tai, cơ quan thường trực là ngành nông nghiệp; Dịch tễ học là ngành y tế.

Nếu luật không quy định rõ ràng thì khi thực hiện sẽ có những vướng mắc nhất định, vì vậy trong luật này chúng ta quy định rõ trường hợp nào và cơ chế hoạt động cùng nhau. Trường hợp nào thì thường trực cơ quan nào, vì chủ tịch ở đây vẫn là Chủ tịch UBND các cấp, nhưng cơ quan tham mưu đề xuất, giải quyết cần phải quy định rõ hơn để dễ thực hiện. khi tổ chức.


Luật Quốc phòng năm 2018:

Điều 13. Phòng thủ dân sự

1. Phòng thủ dân sự là một bộ phận của phòng thủ quốc gia bao gồm các biện pháp phòng và chống chiến tranh; phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai, sự cố, thiên tai, dịch bệnh; bảo vệ người dân, cơ quan, tổ chức và nền kinh tế quốc dân.

2. Nhiệm vụ phòng thủ dân sự bao gồm:

a) Xây dựng cơ chế, phương án hoạt động phòng thủ dân sự;

b) Tuyên truyền, giáo dục, bồi dưỡng, tập huấn, huấn luyện, diễn tập;

c) Xây dựng hệ thống công trình phòng thủ dân sự;

d) Xây dựng hệ thống thu nhận, xử lý thông tin, dự báo, cảnh báo, thông báo, báo động;

d) Thực hiện các biện pháp phòng thủ dân sự.

3. Lực lượng dân phòng bao gồm:

a) Lực lượng nòng cốt gồm Dân quân tự vệ; Công an xã, phường, thị trấn; lực lượng chuyên trách hoặc kiêm nhiệm thuộc Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và các Bộ, ngành Trung ương và địa phương;

b) Lực lượng được toàn dân tham gia rộng rãi.

4. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

THẢO PHƯƠNG

Written by 

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *