(TN&MT) – Hà Nội và Bác Hồ vừa là đề tài lớn, vừa là nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam trong nhiều năm qua. Hà Nội và Bác Hồ đều có những bài thơ, bài hát viết về Bác nhiều nhất.
Phải cảm phục, kính trọng, yêu mến, ngưỡng mộ, tin cậy, yêu mến, tri âm, tri âm, tri kỉ mới làm được điều đó. Đất phải địa linh, nhân kiệt phải “vàng son”, nghĩa tình phải sâu nặng, thơ ca phải làm được điều đó.
Từ khi chúng ta giành được độc lập, Hà Nội và Bác Hồ, nói rộng ra là tinh hoa Thăng Long – Hà Nội ngàn năm với tinh hoa của Bác, thường ở bên nhau – “Lưỡng quốc song hành”, hòa quyện – “Lưỡng quốc giao hòa”. nước ”, cùng nhau rực sáng -“ Dương Châu song huy ”, nhân ngày Bác Hồ ra mắt đồng bào dân tộc trên Quảng trường Ba Đình, đã long trọng đọc bản“ Tuyên ngôn độc lập ”do Bác viết từ ngôi nhà 48 Hàng Ngang, Ngày quang vinh: Hà Nội vẻ vang! Cả nước quang vinh!
“Tám mươi năm nô lệ” là số phận của người Việt Nam và người Hà Nội trong “thời Pháp thuộc”, từ khi liên quân Pháp – Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng (1858) đến Cách mạng Tháng Tám (1945). Tuy nhiên, “văn bản chính thức” để toàn bộ Việt Nam và Hà Nội được “đặt dưới quyền của Pháp” là “Sắc lệnh thành lập Liên bang Đông Dương”, do Tổng thống thứ 5 của Đệ tam Cộng hòa Pháp, Marie Francois Sadi Arnot, ban hành. ký ngày 17 tháng 10 năm 1887. Lúc đầu, liên bang này chỉ gồm Campuchia, Bắc Kỳ (VN), Trung Kỳ (VN), Nam Kỳ (VN) và đến năm 1893 thì sáp nhập Lào.
Cũng trong năm 1887, người Pháp tách một số huyện ven biển của tỉnh Hải Dương để thành lập tỉnh Hải Phòng và ngày 19/7/1888, Tổng thống kia ký lệnh thành lập thành phố Hải Phòng (đô thị cấp II). Cùng năm, người Pháp khánh thành đường điện báo Sài Gòn – Hà Nội (qua Quy Nhơn, Đà Nẵng, Huế, Vinh) và thành lập Công ty khai thác than Bắc Kỳ có trụ sở đặt tại … Paris và Tổng thống Pháp. ra lệnh thành lập thành phố Hà Nội (đô thị loại I – ngang với Sài Gòn), đồng thời nâng Hải Phòng lên đô thị loại I.
Ngày 3 tháng 10 năm 1888, vua Đồng Khánh nhà Nguyễn ra chiếu chỉ, nhường quyền “sở hữu” Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng cho người Pháp – giống như Nam Kỳ. Ba vùng này từ đó trở thành thuộc địa chính thức của Pháp.
Tóm lại, Thăng Long – Hà Nội của chúng ta “thuộc địa” như vậy, còn Bắc Kỳ nói chung, “cũng” là đất “nửa thuộc địa, nửa bảo hộ” và Trung Kỳ “chỉ” là đất. “sự bảo vệ”. Tiếp tục, năm 1889, Toàn quyền Đông Dương ra lệnh thành lập thành phố Đà Nẵng thuộc tỉnh Quảng Nam. Đà Nẵng được Pháp xếp hạng là đô thị loại II, ngang hàng với Chợ Lớn và Phnôm Pênh.
*
Nói rộng ra để thấy rằng, trước năm Bác Hồ sinh ra, người Pháp đã là “ông chủ”, ngang nhiên làm mọi việc ở Đông Dương nói chung, ở nước ta và Hà Nội nói riêng – từ hành chính, giao thông, bưu chính … đến khai khẩn, mở trường, lập viện … Đúng là “Tổng đốc”, “Tổng đốc”, “Thống sứ”, “Sứ thần”, “Lãnh sự”. “! Dù sao, với Hà Nội, người Pháp vẫn có chút” tín “, khi gọi Hà Nội là” thành “chứ không phải là” tỉnh “như Minh Mệnh.
Nhưng đến mùa hè năm 1890, lịch sử đã “cài” vào chương trình tưởng như suôn sẻ và viên mãn của người Pháp một “yếu tố” mà họ không ngờ tới: sự ra đời của cậu bé Nguyễn Sinh Cung.
Người Pháp không ngờ và họ vẫn tiếp tục chương trình của mình: Ngay trong tháng Năm “định mệnh” 1890, người Pháp vẫn đặt mua tuyến đường sắt đầu tiên ở Bắc Kỳ, đoạn Phủ Lạng Thương (Thành phố phía Bắc). Giang ngay).
6 năm sau (tháng 10 năm 1896), Toàn quyền Đông Dương ra lệnh thành lập “Trường Quốc học” ở Huế và 8 năm sau (1898), họ khởi công xây dựng cầu Long Biên (cầu Doumer) …
Vì vậy cho đến năm 1911, “yếu tố” mà lịch sử đã “cài đặt” vào chương trình của người Pháp từ năm 1890 như đã nói, mới bắt đầu “can thiệp” vào chính chương trình đó.
Cậu bé Nguyễn Sinh Cung năm ấy được thầy giáo Nguyễn Tất Thành. Ông rời cảng Nhà Rồng, sang Pháp, quyết tâm khám phá “cơ cấu bên trong” của chủ nghĩa thực dân để tìm cách đánh đổ nó. Chín năm sau, năm 1920, thầy giáo Nguyễn Tất Thành được thế giới biết đến với cái tên Nguyễn Ái Quốc, qua bản “Tuyên ngôn của dân tộc Việt Nam” tại Hội nghị Versailles, sau đó là “Bản án chế độ thuộc địa”. France ”, in tại Paris (1925) …
Chỉ 5 năm sau (1930) Nguyễn Ái Quốc đứng ra thành lập Đảng và 15 năm nữa, năm 1945, Người đã cùng Đảng và toàn dân làm Cách mạng Tháng Tám, giành chính quyền, khôi phục đất nước, xây dựng chế độ. Nước dân chủ cộng hòa đầu tiên ở nước ta.
Hà Nội trở lại với vai trò là thủ đô của Tổ quốc, Nguyễn Ái Quốc trở thành Chủ tịch Hồ Chí Minh mà nhân dân thường gọi là “Bác Hồ”, “Bác Hồ”. Từ đó, Bác “đóng đô” ở Hà Nội. Hà Nội trở thành nơi đón nhận bản Hiến pháp đầu tiên của chế độ mới và cũng là nơi phát đi “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Bác Hồ – “Ai có súng thì hãy dùng súng…”, mặc dù “Chúng tôi muốn đến.” hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng… ”. Theo đó, Hà Nội lên đường kháng chiến, Trung đoàn Thủ đô đi đầu, để lại “cả tòa thành rực lửa” (1946) và sau 9 năm (1954), với chiến thắng Điện Biên Phủ, Hà Nội đón “Bộ đội Cụ Hồ”. trở về giải phóng, với “Đông Trung quân đi như sóng…”. Bước ngoặt lịch sử này đã đưa Bác trở lại thủ đô.
Từ cuộc “Kháng chiến – Kiến quốc”, Bác Hồ cùng Đảng và toàn dân bước vào cuộc kháng chiến “thần thánh” lần thứ hai, trực tiếp chống Mỹ ở miền Nam và xây dựng “Hậu phương lớn” ở miền Bắc. Sau ngày Mỹ ném bom miền Bắc, tại Hà Nội, Bác chủ trì “Hội nghị chính trị đặc biệt” (năm 1964) và ý chí của Bác Hồ cùng toàn dân tộc lại bừng lên khi Bác ra “Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ”. cả nước ”(1966) bất hủ:“… Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, nhà máy có thể bị tàn phá, nhưng nhân dân Việt Nam kiên quyết không sợ hãi! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày toàn thắng, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn! “. Tôi thấy rõ tinh thần” Ai cầm súng, hãy dùng súng … “trong ngày kháng Pháp!
Chỉ 2 năm sau “Lời kêu gọi…” của Bác, cuộc gặp chính thức đầu tiên giữa đại diện Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đại diện Chính phủ Hoa Kỳ đã diễn ra tại Paris (13/5/13). 1968), làm tiền đề cho “Hội nghị bốn bên về Việt Nam” lịch sử và ngày 21 tháng 1 năm 1969, phiên họp toàn thể của hội nghị bốn bên đó được triệu tập, cũng tại Paris.
Vì vậy, trước khi Bác về “Thiên hạ đệ nhất hùng quan” (2-9-1969), Bác đã cùng với Đảng, quân ta làm cho Mỹ thua trong “Chiến tranh đặc biệt”, “Chiến tranh cục bộ” và bắt Mỹ. Trước hết, phải tính đến “Việt Nam hóa chiến tranh”. Thật đáng buồn cho họ! Những cuộc chiến đó đều do họ bắt đầu và hiệu quả của chúng như thế nào thì lịch sử đã cho thấy. “Điện Biên Phủ trên không” (1972) và “Mùa xuân đại thắng” (1975) là hai đòn “kết liễu”!
Quả thật, Hà Nội và Bác Hồ, từ khi dựng nước, trong những năm tháng vĩ đại luôn là “Hai dân tộc song hành”, “Lưỡng long chầu nguyệt”, “Hai châu hai màu”.
Từ Hà Nội, Bác Hồ “Tuyên ngôn độc lập” không hổ danh là “Nước Nam sơn hà” của Lý Thường Kiệt, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” và “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”. “Đồng bào, bộ đội Cụ Hồ cả nước” không hổ danh là “Hịch tướng sĩ” của Hưng Đạo Đại Vương.
Với những “Thiên cổ hùng văn” ấy, tinh thần tự lực – tự cường và truyền thống yêu nước của dân tộc và Hà Nội càng được lan tỏa rực rỡ.
Ra mắt đồng bào Hà Nội với bản “Tuyên ngôn độc lập” bất hủ, ông từ Hà Nội trở về “Thế giới người” sau khi để lại một bản “Di chúc” độc nhất vô nhị (mà theo Chế Lan Viên, “Một người ôn hòa viết Di chúc trong trung hiếu sinh ”- Bác coi sự ra đời của mình là ánh sáng bên cạnh sự trường tồn của Tổ quốc, dân tộc).
Bác Hồ, trong cuộc đời vĩ đại của mình, đã để lại ở thủ đô hai thời khắc xúc động nhất của lịch sử cận đại Việt Nam. Nhưng vĩ nhân, hơn ai hết, “Thác là thanh liêm, là tinh hoa”.
Tinh hoa của anh còn đó, lăng anh còn đây, Hà Nội vẫn như Bác Hồ – “Nước Nhật tương lai”.