Với đường bờ biển dài, Việt Nam được nhiều tổ chức trong và ngoài nước đánh giá là có tiềm năng phát triển năng lượng gió rất lớn. Theo ông Phạm Nguyên Hùng, Phó Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo, Bộ Công Thương, về mặt kỹ thuật, tiềm năng điện gió ngoài khơi của Việt Nam ước tính khoảng 500 GW, là một nguồn điện rất lớn so với vùng đất. va thê giơi. Ngoài ra, những tiến bộ gần đây trong công nghệ tuabin gió và khả năng lưu trữ cũng đã nâng cao tính ổn định và tính khả thi của năng lượng gió ngoài khơi.
Điện gió ngoài khơi có tiềm năng trở thành một trong những nguồn năng lượng chính trong hệ thống năng lượng của Việt Nam trong tương lai, từ đó giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch nhập khẩu. Tuy nhiên, đây vẫn là một lĩnh vực rất mới đối với ngành công nghiệp trong nước.
Theo TS Nguyễn Mạnh Cường, Viện Năng lượng – Bộ Công Thương, đến năm 2030 quy mô điện gió ngoài khơi có thể lớn hơn 7.000 MW khi điều kiện kinh tế – kỹ thuật cho phép (đặc biệt là giá điện và hạ tầng kết nối). ); Đến năm 2045, quy mô toàn quốc có thể đạt 64.500 MW.
Tuy nhiên, để đưa phong điện ngoài khơi vào thực tiễn, Việt Nam vẫn chưa có quy hoạch tổng thể về hệ thống cáp ngầm kết nối các dự án nhằm giảm thiểu tác động đến hệ sinh thái, giao thông biển và sinh kế. Ngư dân; vấn đề xác định ranh giới đầu tư lưới điện đấu nối giữa chủ đầu tư điện gió ngoài khơi và đơn vị quản lý vận hành đầu tư hệ thống truyền tải (EVN).
Ngoài ra, Việt Nam chưa xác định rõ dự án điện gió ngoài khơi nào sẽ được cấp chủ trương đầu tư, dẫn đến việc đầu tư nâng cấp lưới điện đồng bộ với dự án bị động. Quy trình, thủ tục đầu tư còn phức tạp, có sự chồng chéo trong quản lý giữa các bộ, chính quyền địa phương đối với vùng biển dẫn đến thời gian chuẩn bị đầu tư kéo dài và tiềm ẩn nhiều rủi ro trong quá trình thực hiện. .
Chia sẻ về vấn đề này, ông Stuart Livesey, Tổng giám đốc dự án điện gió ngoài khơi La Gan kiêm giám đốc quốc gia Copenhagen Offshore Partners (COP) tại Việt Nam cho rằng, chính sách và rủi ro còn thiếu rõ ràng. Các rủi ro khác sẽ dẫn đến tăng chi phí, do nhà đầu tư phải dự phòng một khoản ngân sách lớn cho rủi ro trong trường hợp các dự án bị trì hoãn hoặc bị hủy bỏ. Những rủi ro này thường xảy ra ở các thị trường mới. Bên cạnh đó, ở Việt Nam hiện tại vẫn chưa có Quy hoạch điện VIII hoàn chỉnh, kèm theo giấy phép khảo sát không gian biển, quy hoạch không gian biển, quy trình lựa chọn nhà đầu tư minh bạch,…
“Chúng tôi coi Quy hoạch không gian biển là một công cụ rất hữu ích giúp định hướng phát triển ngành điện gió ngoài khơi kết hợp hài hòa với các hoạt động khác về môi trường biển như dầu khí, quốc phòng, v.v. và an ninh quốc phòng, du lịch và giải trí, đánh bắt và nuôi trồng thủy sản, đánh bắt tổng hợp,… Tuy nhiên, kinh nghiệm toàn cầu cho thấy cần nhiều thời gian để xây dựng và thực hiện nhiều tham vấn. giữa khu vực nhà nước và tư nhân cùng với các cơ quan ban ngành của chính phủ để hình thành nên quy hoạch tổng thể hoàn chỉnh ban đầu này. Do đó, chiến lược và kế hoạch phát triển ngành điện gió ngoài khơi không nên bị trì hoãn bởi việc xây dựng Quy hoạch không gian biển này. Ông Stuart Livesey nói rằng cần phải tham gia đối thoại để hài hòa lợi ích của các bên sử dụng khu vực biển và xác định những hoạt động nào có thể được thực hiện cùng nhau.
Trong tương lai gần, với việc ngành điện Việt Nam ngày càng phải đối mặt với nhiều thách thức hơn trong việc đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế, chuyển đổi năng lượng,… xu hướng phát triển năng lượng tái tạo trên thế giới; trong đó điện gió ngoài khơi là một giải pháp đột phá.
Ông Hoàng Trọng Hiếu – Phó Chánh Văn phòng Ban Chỉ đạo Quốc gia về phát triển điện lực cho biết, mặc dù có những bước phát triển mạnh mẽ nhưng nguồn điện gió và điện mặt trời phải đối mặt với những khó khăn, thách thức lớn. như: Quy hoạch chưa được quản lý đồng bộ và hiệu quả; thời gian cấp phép đầu tư bị kéo dài. Đặc biệt, đến nay chưa có quy hoạch không gian biển cho điện gió xa bờ; Về công nghệ, Việt Nam vẫn phải phụ thuộc nhiều vào nước ngoài.
Chia sẻ từ các doanh nghiệp cho thấy, để phát triển một trang trại điện gió ngoài khơi có thể mất từ 5 đến 11 năm, bao gồm các bước: khảo sát, cấp phép, lập dự án, chuẩn bị thi công, xây dựng, chạy thử … Trong khi đó, thời gian để đạt được mục tiêu của 7 GW chỉ là 8 năm (đến năm 2030). Do đó, Việt Nam cần sớm có khung pháp lý phù hợp, bao gồm tầm nhìn chiến lược, bàn giao không gian biển, lưới kết nối, ưu đãi thuế, khuyến khích phát triển chuỗi cung ứng. Đặc biệt, cần có các giải pháp về kết nối lưới điện …
Ông Nguyễn Xuân Huy – Cố vấn cấp cao, Trưởng nhóm R&D điện gió ngoài khơi – Công ty Cổ phần Xây dựng IPC cho biết, đến năm 2030, phải đạt 7 GW điện gió ngoài khơi. Rủi ro được đặt ra là các vấn đề địa chính trị, sự chồng lấn của các khối dầu khí và các khối gió ngoài khơi, các vấn đề pháp lý trong việc cấp phép không gian biển, sự phân biệt không rõ ràng giữa phong điện gần bờ và xa bờ. Ngoài ra, rủi ro kỹ thuật bao gồm cấu trúc địa chất, địa mạo, tác động môi trường, rủi ro về sóng và tốc độ gió, bão. Rủi ro kinh tế bao gồm hợp đồng mua bán điện, giá điện, giá sắt thép, giá tua-bin, lãi suất ngân hàng, lạm phát, đường dây thi công không đầy đủ hoặc tắc nghẽn. Tất cả các yếu tố rủi ro này cần được tính đến, sớm có giải pháp khắc phục.
Khuyến nghị về vấn đề này, TS Dư Văn Toàn, Viện Nghiên cứu Biển và Hải đảo cho rằng, để đạt được mục tiêu phát triển điện gió xa bờ, cần sớm có chính sách hỗ trợ, làm bệ phóng cho sự phát triển. năng lượng gió ngoài khơi. . Có thể kể đến như: Chính phủ, các bộ, ngành sớm xây dựng chiến lược quốc gia về phát triển điện gió ngoài khơi; Cùng với đó, sớm có quy hoạch không gian biển phát triển điện gió ngoài khơi Việt Nam cùng với Chiến lược quốc gia về phát triển năng lượng gió biển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Ngoài ra, để đón đầu các dự án, các bộ, ngành cần xây dựng, bổ sung, hoàn thiện khung thể chế chính sách quốc gia về cấp phép, thẩm định, đánh giá tác động môi trường, cho thuê biển, phát triển các dự án điện gió ngoài khơi và năng lượng biển khác. …; Tiến sĩ Dư Văn Toàn cho biết: Có chương trình nghiên cứu khoa học về điện gió ngoài khơi, từ đó đào tạo nguồn nhân lực và chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực này.
“Về phía doanh nghiệp, chúng tôi mong muốn có những chính sách, quy định, quy trình rõ ràng để các dự án phát triển đúng tiến độ với chất lượng cao. Đặc biệt là sự minh bạch ngay từ đầu đối với các dự án. Vì vậy, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành để có chính sách để tránh chồng chéo và gây khó khăn cho doanh nghiệp ”, ông Stuart Livesey nói. quan điểm.