Cuộc đột kích bất thường của Nhật Bản trong lịch sử quân sự Hoa Kỳ

Rate this post

Ý tưởng lạ của lính Mỹ sau trận Trân Châu Cảng

Ngày 7/12/1941, phát xít Nhật mở cuộc tấn công bất ngờ vào Trân Châu Cảng gây chấn động toàn lục địa Mỹ. Tổng cộng 8 tàu chiến tại căn cứ hải quân gồm 3 tuần dương hạm, 3 khu trục hạm và 5 tàu khác bị đánh chìm hoặc hư hỏng nặng, hàng trăm máy bay bị phá hủy. Khoảng 2.400 lính Mỹ và dân thường thiệt mạng, 1.200 người khác bị thương. Mỹ đã bị đẩy vào Thế chiến II theo cách đột ngột nhất có thể.

94-1.jpg -0
Máy bay ném bom hạng trung B-25 Mitchell của Không quân Hoa Kỳ trong Thế chiến II. Nguồn ảnh: Acepilots.

Trong một thời gian ngắn, quân Nhật càn quét Hồng Kông, chiếm Philippines, chiếm bán đảo Mã Lai và Singapore, chiếm Đông Ấn thuộc Hà Lan, và buộc lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ đóng trên đảo. Wake (Tây Thái Bình Dương) đã phải đầu hàng, và đuổi quân Anh ra khỏi Miến Điện. Trên biển, Nhật Bản đánh chìm thiết giáp hạm HMS Prince of Wales và tuần dương hạm HMS Repulse của Anh…

Tại Thái Bình Dương, người Nhật đã tung ra những đòn không dứt. Giới lãnh đạo Mỹ nhận ra rằng điều quan trọng là họ phải phản công. Phải mất một thời gian dài mới tập hợp đủ lực lượng, nhưng đến lúc đó hình như máy bay Mỹ không có bom để đánh Nhật? Vào ngày 21 tháng 12 năm 1941, chỉ hai tuần sau cuộc tấn công Trân Châu Cảng, Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt nói với Tổng tham mưu trưởng rằng quân Nhật nên bị ném bom càng sớm càng tốt. Nhưng câu hỏi hóc búa là: làm thế nào để ném bom Nhật Bản?

Hải quân Mỹ có máy bay ném bom có ​​thể phóng từ tàu sân bay, nhưng tầm hoạt động rất ngắn. Do đó, các tàu sân bay phải đi trong phạm vi 200 hải lý của lãnh hải Nhật Bản, vô tình đặt chúng vào tầm bắn của máy bay ném bom Nhật Bản. Rủi ro đối với các tàu sân bay – nòng cốt trong nỗ lực chiến tranh của Mỹ ở Thái Bình Dương – là quá cao để có thể trở thành một cuộc tấn công mang tính biểu tượng. Lực lượng Không quân Lục quân Hoa Kỳ có các máy bay ném bom tầm xa hai và bốn động cơ, nhưng không chiếc nào đủ tầm gần để cất cánh, ném bom quân Nhật và bay trở lại. Đó dường như là một trở ngại không thể vượt qua cho đến ngày Đại úy Hải quân Mỹ Francis S. Low bay qua Cánh đồng Chambers (Trạm Hải quân Norfolk, Virginia) và nhìn xuống.

Dưới đây là một đường băng sơn với đường viền của boong tàu sân bay. Có vẻ như không có gì lạ khi các phi công trên tàu sân bay luôn cất cánh và hạ cánh trên những thiết bị mô phỏng như vậy. Tuy nhiên, vào ngày hôm đó, có một số máy bay ném bom hai động cơ của Quân đội đang đậu gần đó. Một tia sáng lóe lên trong tâm trí Low, khi anh liên kết các máy bay ném bom của Quân đội với biên giới boong sơn liền kề. Low nghĩ nhanh tại sao không kết hợp hai máy bay ném bom tầm xa của Lục quân phóng từ boong tàu sân bay Hải quân?

94-2.jpg -0
Trung tá James Harold “Jimmy” Doolittle, một phi công thử nghiệm nổi tiếng trước chiến tranh và kỹ sư hàng không. Nguồn ảnh: AF.mil.

Chọn người và máy bay phù hợp

Ngày 10 tháng 1 năm 1942, Thuyền trưởng Francis S. Low (Trợ lý Tham mưu trưởng Tác chiến chống tàu ngầm) trình bày ý tưởng kỳ lạ của mình với Đô đốc Ernest J. King, Tổng tư lệnh Hạm đội Hoa Kỳ. Cho rằng ý tưởng này đắt tiền, King đã chuyển nó cho Henry “Hap” Arnold, Tổng tư lệnh Lực lượng Phòng không Lục quân Hoa Kỳ. Không kém phần thích ý tưởng này, ông Arnold bắt đầu lên kế hoạch cho một nhiệm vụ tối mật là phóng máy bay ném bom tầm xa từ tàu sân bay để tấn công trực diện Nhật Bản.

Để tổ chức cuộc đột kích thành công, ông Arnold đã chọn Trung tá James Harold “Jimmy” Doolittle, một phi công thử nghiệm nổi tiếng trước chiến tranh và kỹ sư hàng không. Doolittle đã cách mạng hóa ngành hàng không bằng thiết bị đo đạc tiên phong cho phép phi công cất cánh, bay và hạ cánh, bất kể tầm nhìn. Tuy nhiên, ngoài việc là một nhân viên dự bị hoặc sĩ quan tại ngũ, Doolittle không có kinh nghiệm chiến đấu: trong Thế chiến thứ nhất, ông được giữ lại làm huấn luyện viên bay.

Còn việc Hap Arnold chọn Doolittle cho một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng dù biết rằng người được chọn có nhiều khuyết điểm nhưng đó là dụng ý để tạo niềm tin cho viên phi công. Với tinh thần phấn chấn, Doolittle lập tức lên đường. Nhiệm vụ đầu tiên là chọn máy bay ném bom phù hợp với công việc. Nó cần có tầm bắn khoảng 2.400 hải lý khi mang một quả bom nặng 907 kg.

Trong số các máy bay được thử nghiệm, các lựa chọn bao gồm Douglas B-18 Bolo, Douglas B-23 Dragon và Martin B-26 Marauder. Các máy bay ném bom B-18 và B-23 có các khoang cánh cồng kềnh là một trở ngại cho hoạt động của tàu sân bay: nguy cơ va chạm cấu trúc thượng tầng cao. Chúng chiếm nhiều diện tích nên số lượng người vận chuyển không nhiều. B-26 không gặp vấn đề gì, nhưng đặc điểm cất cánh của nó không phù hợp với boong tàu sân bay. Vì vậy, Doolittle đã để mắt đến một chiếc máy bay chưa được thử nghiệm: chiếc B-25 Mitchell của Bắc Mỹ.

Máy bay B-25 hai động cơ được thiết kế để đáp lại lời đề nghị của Không quân vào năm 1939, họ đang tìm kiếm một chiếc máy bay có thể mang một quả bom nặng 1.088,6 kg cho hành trình bay 1.200 hải lý. với tốc độ 300 dặm / giờ. Hãng hàng không Bắc Mỹ đã tung ra một chiếc máy bay vượt quá yêu cầu về tải trọng và tầm bay của bom: quả bom nặng 1.360,7 kg, bay 1.350 hải lý / giờ và đạt tốc độ 272 dặm / giờ. Nó bay lần đầu tiên vào năm 1940 và đi vào hoạt động năm 1941.

B-25 vẫn chưa được thử nghiệm thực địa, nhưng trên giấy tờ, nó có vẻ phù hợp với nhu cầu của Doolittle. Vì vậy, ông bắt đầu thử nghiệm chiếc B-25 và xem liệu nó có hoạt động tốt cho nhiệm vụ thực tế như trên lý thuyết hay không. Hai chiếc B-25 được đặt trên boong tàu sân bay USS Hornet và rời boong vào ngày 3 tháng 2 năm 1942 mà không gặp sự cố. Doolittle bắt đầu tìm kiếm và huấn luyện các phi đội cho cuộc đột kích.

Doolittle tìm thấy chúng trong Bomb Group 17, bay B-25B trong các chuyến tuần tra chống tàu ngầm ngoài khơi bờ biển Oregon. Nhóm được chuyển đến Nam Carolina để thực hiện các nhiệm vụ bay tương tự qua Bờ Đông của Hoa Kỳ. Khi họ quay trở lại, Doolittle yêu cầu họ tình nguyện cho một “nhiệm vụ cực kỳ nguy hiểm”, gần như tất cả đều đã tiến về phía trước.

94-3.jpg -0
Mỹ trả thù người Nhật trong sự kiện Trân Châu Cảng bằng cuộc chiến hải quân Midway, khiến người Nhật thua trong lán. Nguồn ảnh: CBS News.

Trận chiến đã thay đổi lịch sử

Doolittle đã chọn 24 tình nguyện viên, và 22 chiếc B-25 của Bomb Group 17 đã được gửi đến trung tâm chuyển đổi ở Minneapolis để thay đổi cấu trúc của chúng. Đứng đầu trong số đó là việc bổ sung thùng nhiên liệu phụ và thùng nhiên liệu tăng dung tích từ 646 lên 1.141 gallon. Để tạo khoảng trống và bù lại trọng lượng nhiên liệu tăng lên, tháp pháo và đài phát thanh thấp hơn đã bị loại bỏ, trong khi ống ngắm bom tiêu chuẩn của Norden được thay thế bằng một thiết bị ứng biến nhẹ. hơn.

Khi máy bay đã sẵn sàng, các phi đội được cử đến đón và đưa chúng đến Cánh đồng Eglin (Tây Florida). Tại đây, bắt đầu từ ngày 1 tháng 3 năm 1942, Doolittle đã cho các tình nguyện viên ba tuần huấn luyện nghiêm ngặt để chuẩn bị cho chiến đấu thực tế. Họ tập trung vào bay đêm ở độ cao thấp, ném bom tầm thấp, điều hướng đại dương và mô phỏng sàn đáp.

Hai chiếc B-25 bị hư hại trong các sự cố riêng biệt, trong khi một phần ba bị xóa sổ do lỗi cơ khí. Các máy bay còn lại bay đến California và đến Kho hàng không Sacramento vào ngày 27 tháng 3. Tại đây, chúng được sửa đổi và kiểm tra lần cuối, và 16 chiếc tốt nhất đã bay đến Trạm Hàng không Hải quân Alameda vào ngày 31 tháng 3. Ngày hôm sau, những chiếc B-25 ( mỗi chiếc mang theo 4 quả bom 226,7 kg, 3 quả nổ cao và 1 quả gây cháy, cùng với 5 thủy thủ đoàn và nhân viên bảo dưỡng, tất cả đều có mặt trên tàu sân bay USS Hornet.

Tàu sân bay và hộ tống của nó, TG 18, khởi hành từ San Francisco vào ngày 2 tháng 4. Đến Bắc Hawaii vào ngày 12, họ liên kết với tàu sân bay USS Enterprise và Lực lượng Đặc nhiệm TF 16, do Phó Đô đốc William F. “Bull” Halsey chỉ huy. Khi Halsey thông báo với Lực lượng Đặc nhiệm 16 rằng họ sẽ đến Tokyo, tất cả các thủy thủ đều reo hò phấn khích, các phi công từ con số không đã trở thành anh hùng.

Sáng ngày 18 tháng 4 năm 1942, họ bị tàu địch phát hiện khi chỉ còn cách lục địa Nhật Bản 750 hải lý. Lo sợ yếu tố bất ngờ sẽ mất đi nên quyết định tổ chức bắn phá ngay lập tức, sớm hơn 10 giờ và ở cự ly 170 hải lý so với thềm lục địa Nhật Bản so với kế hoạch ban đầu. Lúc 8 giờ 20, Doolittle bay chiếc B-25 đầu tiên từ hàng không mẫu hạm Hornet, đến khoảng 9 giờ 19 phút, 15 chiếc khác đã lần lượt cất cánh. Để tránh bị phát hiện, họ bay thấp qua Nhật Bản. Họ đến vào buổi trưa và ném bom nhiều mục tiêu từ Tokyo, Yokohama, Kobe, Osaka, Nagoya và Yokosuka.

Máy bay B-25 có thể cất cánh từ hàng không mẫu hạm nhưng không thể hạ cánh. Vì vậy, theo kế hoạch, 15 chiếc B-25 tiếp tục bay về hướng Tây và hướng thẳng về phía Trung Quốc, nơi chúng bị rơi. Những người khác sẽ khởi hành đến Vladivostok, nơi họ bị quân Liên Xô chặn đánh. 3 trong số 80 thành viên thủy thủ đoàn thiệt mạng. 8 người bị quân Nhật bắt (3 người bị hành quyết và 1 người chết khi bị giam giữ).

Cuộc tập kích đã để lại một tác động tâm lý mạnh mẽ trên vùng bờ biển Thái Bình Dương. Doolittle đã được trao tặng Huân chương Danh dự. Người Nhật cũng tìm cách cứu vãn thể diện bằng cách chiếm đảo Midway (Bắc Thái Bình Dương) chỉ vài tuần sau đó. Quân Nhật phản công nhanh chóng, nhưng cuối cùng đã bị đánh bại trong Trận Midway, một trận chiến đã lật ngược tình thế của Chiến tranh Thái Bình Dương.

Written by 

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *