“Cú hích” phát triển nông nghiệp bền vững – Phần I: Khẳng định vai trò “xương sống”

Rate this post

10:36, 29/09/2022

BHG – Ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất giúp người dân vùng cực Bắc giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh tế, thay đổi tư duy, từng bước hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, tạo sự liên kết trong sản xuất, bảo vệ môi trường. Đây được xem là “cú hích” để phát triển nông nghiệp bền vững, giúp người dân vùng đầu Tổ quốc xây dựng cuộc sống ấm no.



Ứng dụng khoa học công nghệ giúp HTX Thanh niên Phương Tiến (Vị Xuyên) tạo ra sản phẩm nông nghiệp sạch, an toàn.
Ứng dụng khoa học công nghệ giúp HTX Thanh niên Phương Tiến (Vị Xuyên) tạo ra sản phẩm nông nghiệp sạch, an toàn.

Theo đánh giá của các cơ quan chuyên môn, khoa học và công nghệ được coi là “xương sống” và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp quan trọng, giúp nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, tạo đà bứt phá cho nông nghiệp. . Ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm trên địa bàn tỉnh, nâng cao giá trị canh tác trên một đơn vị diện tích đất.

Điều đó được chứng minh bằng chỉ số sản xuất nông nghiệp hàng năm đều tăng. Đến năm 2021, bình quân lương thực đạt 476 kg / người; giá trị sản phẩm thu hoạch bình quân / ha đất canh tác đạt 56,73 triệu đồng. Ngành chăn nuôi đã làm chủ được quy trình sản xuất tinh đông lạnh và rơm rạ, thụ tinh nhân tạo cho trâu, bò để nâng cao tầm vóc tổng đàn; người dân từng bước chăn nuôi theo tiêu chuẩn thực hành chăn nuôi tốt (VietGAHP), an toàn sinh học theo hướng hàng hóa, giúp nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế.

Ngành lâm nghiệp đã triển khai chương trình đưa giống tốt vào sản xuất thông qua bảo tồn vườn giống lâm nghiệp, nhập giống keo mới của Úc, sản xuất giống để trồng nhằm nâng cao sinh khối và chất lượng rừng sản xuất. . Ứng dụng khoa học công nghệ để theo dõi diễn biến rừng, cảnh báo phòng cháy, chữa cháy rừng. Triển khai cấp chứng chỉ rừng bền vững FSC cho rừng sản xuất trên 9.160 ha tại các huyện Bắc Quang và Vị Xuyên để truy xuất nguồn gốc gỗ xuất khẩu. Ngành thủy sản làm chủ quy trình kỹ thuật sinh sản nhân tạo các loài cá quý hiếm của địa phương như: Bỗng, Mỵ, Dâm xanh, Anh vũ, Chích chòe đất và chuyển giao kỹ thuật cho người dân các huyện Bắc Mê, xứ Quảng. Bình, Bắc Quang tự sản xuất cá giống cung cấp cho người dân trong tỉnh.



Sử dụng men vi sinh trong chăn nuôi gà hàng hóa giúp người dân thị trấn Việt Lâm (Vị Xuyên) nâng cao thu nhập.
Sử dụng men vi sinh trong chăn nuôi gà hàng hóa giúp người dân thị trấn Việt Lâm (Vị Xuyên) nâng cao thu nhập.

Khai thác thế mạnh của huyện năng động, Vị Xuyên tập trung đưa các hoạt động ứng dụng KHCN về cơ sở, nhất là các xã trọng điểm, trung tâm sản xuất nông nghiệp trọng điểm. Do vậy, năng suất, chất lượng một số cây trồng, vật nuôi và sản phẩm hàng hóa chủ yếu được nâng cao, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tổng sản lượng lương thực có hạt của địa phương đến năm 2021 đạt 57,6 nghìn tấn, tăng hơn 17,3 nghìn tấn so với năm 2012; tổng diện tích cây ăn quả gần 1.100 ha, sản lượng quả tươi đạt trên 6.000 tấn / năm; Tổng diện tích chè đến cuối năm 2021 trên 3.700 ha, sản lượng trên 14,2 nghìn tấn, giá trị chè búp tươi 35-40 triệu đồng / ha. Đặc biệt, huyện tập trung phát triển cây dược liệu, ứng dụng khoa học công nghệ vào phát triển thảo quả để tạo sinh kế cho người dân; Đến nay, diện tích cây dược liệu toàn huyện có trên 2.840 ha, trong đó diện tích thảo quả trên 2.800 ha, được trồng tập trung tại 9 xã vùng cao Thượng Sơn, Quảng Ngần, Cao Bồ, Phương Tiến, Thanh Thủy, Thanh Đức, Xín Chải, Lao Chải, Kim Linh.

Bí thư Huyện ủy Vị Xuyên Đỗ Anh Tuấn chia sẻ: Huyện xác định phát triển cây dược liệu là chủ trương, định hướng lớn, là nhiệm vụ quan trọng trong việc bảo vệ và phát triển rừng, gia tăng giá trị từ rừng, tạo sinh kế cho người dân có thu nhập. từ rừng. Duy trì, bảo tồn và phát triển lợi thế cây dược liệu, tập trung thực hiện Đề án phát triển và mở rộng diện tích trồng thảo quả; khuyến khích, tạo điều kiện để người dân sản xuất; liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm; nhiều chính sách hỗ trợ của các cấp hội được triển khai phù hợp với thực tế; thu hút một số doanh nghiệp đầu tư phát triển dược liệu trên địa bàn. Đến nay, trên địa bàn huyện đã hình thành các vùng sản xuất thảo quả tập trung; các hộ tham gia trồng có thu nhập bình quân từ 25 – 40 triệu đồng / năm, tổng giá trị thu nhập từ thảo quả đạt 30 – 40 tỷ đồng; giá trị sản phẩm trên một đơn vị canh tác công nghệ cao bình quân cao hơn 30% so với canh tác truyền thống, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích; giải quyết, tạo việc làm và nâng cao thu nhập, tạo sinh kế cho người dân các xã vùng cao.

Mặc dù tình hình phát triển kinh tế còn nhiều khó khăn, nhưng coi khoa học và công nghệ là khâu “then chốt” trong sản xuất nông nghiệp, cấp ủy, chính quyền các cấp trong tỉnh thường xuyên lãnh, chỉ đạo, tư vấn, hướng dẫn, thu hút, hỗ trợ các doanh nghiệp ứng dụng, đổi mới. Đến nay, tỉnh đã cấp giấy chứng nhận cho 5 doanh nghiệp khoa học và công nghệ trên các lĩnh vực. Với sự tham gia của các doanh nghiệp khoa học và công nghệ, sản xuất nông nghiệp của tỉnh từng bước chuyển từ quy mô nhỏ sang quy mô lớn tập trung, chuyên canh; nhân rộng các mô hình sản xuất hiệu quả, nghiên cứu, chọn tạo các giống cây trồng, vật nuôi chủ lực, có thế mạnh, chất lượng cao; xây dựng các vùng chuyên canh sản xuất giống, phát triển cây công nghiệp, cây dược liệu, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa, gắn với chế biến, xây dựng thương hiệu, đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật cho đất nước. sản xuất, phù hợp với điều kiện của từng vùng trong tỉnh, góp phần thực hiện có hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói, giảm nghèo và xây dựng nông thôn mới.



Khu nuôi trồng nấm đông trùng hạ thảo của Chi nhánh Công ty cổ phần phát triển nông lâm nghiệp và môi trường Việt Nam.
Khu nuôi trồng nấm đông trùng hạ thảo của Chi nhánh Công ty cổ phần phát triển nông lâm nghiệp và môi trường Việt Nam.

Chi nhánh Công ty Cổ phần Phát triển Nông lâm nghiệp và Môi trường Việt Nam là một trong những đơn vị nổi bật trong việc thực hiện mô hình liên kết nhằm đẩy mạnh khoa học công nghệ vào sản xuất và đời sống. Công ty đã phối hợp chuyển giao nhiều chương trình, dự án khoa học công nghệ, chương trình nông thôn miền núi cho các huyện và nhân dân trong tỉnh. Lãnh đạo Công ty cho biết: Chi nhánh Công ty đã và đang nỗ lực đầu tư trang thiết bị ban đầu hiện đại, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại địa phương và thương mại hóa thành công nhiều sản phẩm phục vụ sản xuất. nông, lâm nghiệp và tiêu dùng.

Hiện công ty đang triển khai các dòng sản phẩm nấm đông trùng hạ thảo; Trà đinh lăng, trà Xuyên tâm liên, trà Diếp cá; các sản phẩm cây dược liệu nuôi cấy mô có giá trị kinh tế cao như: Đinh lăng, gừng gió, kim tuyến, thạch hộc, hà thủ ô đỏ, sa nhân tím, ba kích tím, mã đề hoa đỏ; lâm sản; giống cây ăn quả… Với việc ứng dụng khoa học công nghệ, sản phẩm của Công ty được thị trường chấp nhận và đánh giá cao. Đây là cơ sở để doanh nghiệp tiếp tục đầu tư, cải tiến trang thiết bị, máy móc phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh.

Với đặc điểm điều kiện tự nhiên như tỉnh ta, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất là hướng đi đúng đắn, thực sự tạo “cú hích” mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp; Nhưng nhìn thẳng vào thực tế, khoa học và công nghệ chưa thể hiện rõ vai trò, động lực phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh, chưa có nhiều công trình khoa học đột phá, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ trên các lĩnh vực. ; việc lựa chọn và triển khai các đề tài, dự án khoa học và công nghệ chưa có trọng tâm, trọng điểm và chiến lược; chưa gắn với ứng dụng nâng cao chất lượng các sản phẩm thế mạnh của tỉnh, nhất là nông nghiệp. Đứng trước thực trạng đó, tỉnh ta đã chú trọng đến lĩnh vực khoa học và công nghệ, lấy đó làm đòn bẩy để tháo gỡ những “nút thắt” cho sản xuất nông nghiệp.

Bài, ảnh: Kim Tiến

Written by 

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *