Cần xác định tên chữ Hán của Nguyễn Đình Chiểu

Rate this post

Sau cuộc hội thảo về Nguyễn Đình Chiểu, PGS. GS.TSKH Đoàn Lê Giang đăng trên trang Facebook cá nhân hai quan điểm về tên chữ Hán của ông Từ Chiêu: Chiêu (炤) bộ Hoa và chữ Chiêu (沼) bộ Thủy.

Quan điểm thứ nhất cho rằng ông Nguyễn Đình Huy (cha của Nguyễn Đình Chiểu) có chữ Hán là Huy (煇) thuộc bộ Hỏa, nên con ông là Chiêu (炤) cũng thuộc bộ Hỏa. Nguyễn Đình Chiểu tên là Mạnh Trạch (孟 擇) được ghép từ “Tích Mạnh mẹ; Trạch lan nước” (Xưa mẹ Mạnh Trạch chọn xóm cho con).

Quan điểm thứ hai lại khác: tên Chiêu (沼) thuộc về nước Lệnh, tên Mạnh Trạch gồm 2 phần: Mạnh (孟) là con trưởng, Trạch (澤) là đầm, liên quan đến nghĩa. đến Chiêu (沼) là con trưởng. ao.

Vì vậy, tên kanji nào là chính xác?

Chúng ta biết rằng chữ Hán và họ của Nguyễn Đình Chiểu trong các tài liệu hiện hành, kể cả các bộ gia phả, đều được viết là 阮 廷 炤 hoặc 阮 廷 沼, khác với chữ Chiêu (炤 hoặc 沼). Để xác định tên chữ Hán của Đồ Chiểu, trước hết cần tìm hiểu cách đặt chữ của người xưa.

Ý tưởng một mình (字) hay ký hiệu học (表字) có nguồn gốc từ thời nhà Thương (Trung Quốc), thịnh hành vào thời nhà Chu, sau đó dần dần có hệ thống. Theo sách Lễ ký kếtBầu trời Đan Cung, Những người nhỏ tuổi gọi trực tiếp tên chính thức của người lớn là thiếu tôn trọng, vì vậy những người có học thường sử dụng tên riêng của họ thay vì tên chính thức của họ. Cách gọi này thể hiện sự tôn trọng đối với đối phương, nhưng nếu một người sử dụng tên của mình, nó thể hiện sự khiêm tốn của họ.

Vào thời cổ đại, khi nam giới đến 20 tuổi, anh ta đã đặt tên cho mình, và khi một người phụ nữ đến tuổi 15, cô ấy đã đặt tên cho mình. Vào thời nhà Đường, nghi lễ đặt chữ này được gọi là lễ Nguyên Phủ (元 服 禮).

\N

Bản thân của một người thường có 2 chữ cái, ý nghĩa liên quan đến tên chính thức. Ví dụ: Lê Quý Đôn (黎 貴 惇) âm Doãn Hậu (允 厚): đẳng (惇) + Hậu (厚); Gia Cát Lượng (诸葛亮) từ Kong Ming (孔明): Liang (亮) là sáng, và ming (明) cũng sáng.

Nói chung, có một số cách cấu tạo tên, ở đây xin nói về cách đặt tên liên quan đến Nguyễn Đình Chiểu, đó là ba (伯), Trọng (仲), chú (叔), Quy (季), từ biểu thị. thứ bậc của anh em trong gia đình. Ba là con trai trưởng của dòng đích tôn, quan trọng là con trai thứ, tiếp đến là chú và quý. Riêng con trai thứ (trưởng) của dòng thứ hai được gọi là mạnh (孟). Nguyễn Đình Chiểu là con đầu của bà Trương Thị Thiết – vợ thứ của ông Nguyễn Đình Huy nên lấy hiệu là Mạnh Trạch.

Thông thường, người ta có thể đặt mình dựa trên truyền thuyết hoặc danh ngôn, nhưng bản thân của Nguyễn Đình Chiểu thì không nằm trong trường hợp này, bởi vì Mạnh (孟) là một từ thứ tự, và Trạch (澤) là đầm, có liên quan đến tên Chiêu (沼) là ao.

Như vậy, theo chúng tôi, quan điểm thứ nhất chỉ là phỏng đoán, tên của Nguyễn Đình Chiểu không phải là Mạnh Trạch (孟 擇) lấy từ “Tích Manh mẹ; Trạch lan xứ”. Vì từ trach Cái này (擇) thuộc họ Thủ, có nghĩa là lựa chọn, không liên quan gì đến tên Chiêu (炤) thuộc họ Lửa, có nghĩa là tỏa sáng.

Tóm lại, chúng tôi đồng ý với quan điểm thứ hai: viết tên 沼 (Chiêu) và ký tự 孟澤 (Mh Trạch) là đúng. Xin nhắc lại, Meng (孟) là con trai đầu tiên của dòng phụ, Ze (澤) là đầm, có nghĩa liên quan đến Chiêu (沼) là ao.

Tất nhiên, bài viết này chỉ là một gợi ý, quyết định cuối cùng về tên chữ Hán của Nguyễn Đình Chiểu còn tùy thuộc vào cơ quan có thẩm quyền.

Written by 

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *