Các doanh nghiệp tư nhân phải đối mặt với nhiều thách thức trong quá trình phục hồi sau đại dịch

Rate this post

Chú thích ảnh
Hỗ trợ tài chính là cần thiết để các doanh nghiệp duy trì hoạt động và phục hồi sau đại dịch COVID-19. Minh họa: TTXVN

Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon sẽ ảnh hưởng lớn đến các nhà xuất khẩu

Trong báo cáo vừa gửi Thủ tướng Chính phủ, phản ánh những khó khăn, thách thức mà doanh nghiệp tư nhân gặp phải trong quá trình khắc phục hậu quả sau đại dịch COVID-19, Ban IV cho rằng, ngoài khó khăn về tài chính, doanh nghiệp còn khó khăn trong việc tìm hiểu thông tin. xung quanh chủ đề giảm thiểu phát thải.

Cam kết mạnh mẽ về không phát thải ròng vào năm 2050 được Thủ tướng Phạm Minh Chính công bố tại COP 26 thể hiện quan điểm và chiến lược rõ ràng của Chính phủ trong việc chống biến đổi khí hậu và phát triển bền vững. Ngay sau đó là việc cụ thể hóa các cam kết bằng các hành động cụ thể của Chính phủ, thông qua việc thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia thực hiện các cam kết của Việt Nam tại COP 26, và ban hành Nghị định số 06/2022 / NĐ-CP (quy định về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn) và Quyết định số 01/2022 / QĐ-TTg (ban hành danh mục các lĩnh vực, cơ sở có phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính).

Tuy nhiên, để quá trình này thành công, theo Ban IV, bên cạnh nỗ lực của Chính phủ với vai trò kiến ​​tạo, dẫn dắt, người dân và doanh nghiệp cần đóng vai trò trung tâm và là người thực hiện. Đặc biệt, người dân cần nâng cao ý thức từ những việc nhỏ nhất như giảm thiểu rác thải sinh hoạt, giữ gìn vệ sinh môi trường. Đối với các doanh nghiệp, trước hết cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về bảo vệ môi trường, đặc biệt các dự án đầu tư phải đảm bảo đáp ứng đủ các yêu cầu, điều kiện cần thiết về môi trường mới được phép phát triển. mở và vận hành.

Ở một góc độ khác, thách thức được các hiệp hội phản ánh là các doanh nghiệp và hiệp hội chưa hiểu và đánh giá đúng vai trò của họ, cũng như các yêu cầu và quy định mới có nguy cơ ảnh hưởng đến họ. đến sản xuất kinh doanh để đồng hành với quyết tâm của Chính phủ, vì chưa có kênh thông tin nào cung cấp các khía cạnh liên quan trực tiếp đến doanh nghiệp. Thách thức ngày càng gia tăng khi gần đây, Mỹ và Liên minh châu Âu – thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam – đang đề xuất áp dụng một cơ chế mới, gọi là Cơ chế điều chỉnh biên giới các-bon (CBAM). ), đưa ra các hàng rào kỹ thuật, các quy định liên quan đến giảm phát thải mà các doanh nghiệp ở các nước xuất khẩu vào các thị trường này phải tuân thủ và có thể đánh thuế các-bon trong trường hợp không tuân thủ. Thời hạn áp dụng các cơ chế này, nếu được thông qua, sẽ sớm nhất là vào năm 2024 (đối với cơ chế của Hoa Kỳ) và năm 2026 (đối với cơ chế của EU). Theo đó, sẽ ảnh hưởng rất lớn và phức tạp đến hầu hết các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam.

Ưu đãi miễn thị thực chưa đáp ứng được xu hướng du lịch sau đại dịch

Báo cáo của Ban IV cũng nêu rõ một số khó khăn cụ thể liên quan đến phục hồi du lịch. Theo Tổng cục Du lịch, tổng lượng khách du lịch nội địa 6 tháng đầu năm 2022 đạt 60,8 triệu lượt, gấp 1,3 lần mức trước đại dịch của 6 tháng đầu năm 2019. Tuy nhiên, cũng trong giai đoạn. Năm nay, Việt Nam mới chỉ đón được hơn 600.000 lượt khách quốc tế, tương đương 7% mức trước đại dịch của 6 tháng đầu năm 2019 vì những khó khăn cả khách quan và chủ quan. Mục tiêu đón hơn 5 triệu lượt khách quốc tế đến Việt Nam vào năm 2022 vẫn còn rất nhiều thách thức.

Một số khó khăn lớn được xác định bao gồm, thời điểm khai trương (15/3/2022) rơi vào cuối mùa cao điểm của du lịch trong nước (khách nước ngoài đến Việt Nam – thường từ tháng 10 đến cuối tháng 3). hàng năm), và có sự biến động lớn ở một số thị trường mục tiêu và truyền thống (do xung đột Nga-Ukraine, lạm phát ở Mỹ và nhiều nước châu Âu, hoặc do chính sách thắt chặt với COVID-19 từ Trung Quốc, Nhật Bản…) nên ảnh hưởng thu hút khách quốc tế còn rất hạn chế.

Khâu tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến chủ trương mở cửa du lịch đến các thị trường mục tiêu còn hạn chế. Mặc dù Chính phủ đã công bố chính thức mở cửa du lịch quốc tế từ ngày 15/3/2022, kèm theo việc nới lỏng dần các quy định về sức khỏe đối với du khách vào Việt Nam sau đó, tuy nhiên, các hoạt động truyền thông, quảng bá du lịch Việt Nam ra nước ngoài vẫn chủ yếu do tư nhân thực hiện. doanh nghiệp riêng lẻ tùy theo năng lực và mối quan hệ của từng doanh nghiệp. các nguồn lực và nỗ lực công-tư cho các thị trường mục tiêu.

Ngoài ra, chính sách thị thực nhìn chung đã được công bố thông thoáng như trước khi xảy ra dịch COVID-19, nhưng các ưu đãi về miễn thị thực vẫn chưa đáp ứng được xu hướng du lịch sau dịch (khách quốc tế ít đi du lịch vòng quanh thế giới). di chuyển, có xu hướng lưu trú dài ngày tại một quốc gia trong khi thời hạn miễn thị thực của Việt Nam chỉ tối đa là 15 ngày), chưa cạnh tranh được với các nước trong khu vực. Các vấn đề như thị thực nhận được tại cửa khẩu vẫn yêu cầu giấy “chấp thuận thị thực”, đòi hỏi thủ tục giấy tờ phức tạp hơn so với trước COVID-19; hay thị thực điện tử (e-visa) cũng không có cơ chế xác nhận ngày trả lời tự động trên website và chưa giải thích được lý do hồ sơ bị từ chối khiến du khách nhập cảnh Việt Nam gặp rắc rối. rất nhiều khó khăn không cần thiết.

Cải cách thủ tục, đơn giản hóa thị thực

Để hỗ trợ ngành du lịch nhanh chóng phục hồi, đặc biệt là khôi phục lượng khách quốc tế đến Việt Nam, Ban IV kiến ​​nghị Chính phủ chỉ đạo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (Tổng cục Du lịch), các đại sứ tại các cửa hàng Việt Nam ở nước ngoài, Bộ Bộ Thông tin và Truyền thông tiếp tục phối hợp chặt chẽ, tăng cường hợp tác công tư để có kế hoạch đồng bộ đẩy mạnh truyền thông quốc tế và tiếp thị du lịch quốc tế, đặc biệt trong lĩnh vực du lịch. tìm cơ chế phát huy mạnh mẽ vai trò của các văn phòng xúc tiến du lịch Việt Nam tại một số quốc gia (như Anh, Australia – những nơi đã được Hội đồng Tư vấn Du lịch TAB và các doanh nghiệp du lịch tích cực xây dựng).

Ủy ban này đề xuất Chính phủ giao Bộ Ngoại giao và Bộ Công an nghiên cứu phương án hoàn thiện chính sách thị thực / thị thực điện tử theo hướng mở rộng danh mục miễn thị thực cho các thị trường tiềm năng như Hoa Kỳ, Ấn Độ, Canada, Australia, New Zealand, Thụy Sĩ, Bỉ, Hà Lan … nhằm đa dạng hóa thị trường, không bị lệ thuộc vào một số thị trường truyền thống, nhất là các thị trường có vị thế thống lĩnh trong khu vực. các vùng nhưng du khách chưa sẵn sàng đi du lịch trở lại như Nga, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản. Cùng với đó, tăng thời gian miễn thị thực cho các thị trường xa như thị trường châu Âu (Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Ý và các nước Bắc Âu) từ 15 ngày lên 30 ngày; áp dụng thị thực xuất nhập cảnh nhiều lần và có thời hạn nhiều ngày hơn để thu hút và giữ chân du khách ở lại Việt Nam lâu hơn, từ đó tăng doanh thu cho ngành du lịch.

Một giải pháp khác được Ban IV đề cập là giảm bớt giấy tờ, thủ tục cho các hãng lữ hành hoặc trực tiếp với khách du lịch, đơn giản hóa thị thực điện tử và thị thực tại các cửa khẩu để phát huy hiệu quả. hơn nữa các hình thức thị thực này. Đối với những cải cách sắp tới liên quan đến hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về du lịch, Ban kiến ​​nghị Chính phủ tăng cường các chương trình đối thoại, chia sẻ công tư để các doanh nghiệp nhận thức được hiệu quả và hiệu lực của du lịch. kết quả và tăng cường sự ủng hộ cũng như niềm tin vào những nỗ lực của ngành.

Riêng về chủ đề hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao nhận thức về giảm phát thải để thực hiện cam kết của Việt Nam tại COP 26 và thích ứng với thách thức từ thị trường quốc tế, Ban IV cho biết đang tiến hành khảo sát. nhanh chóng mở rộng doanh nghiệp nhằm đánh giá đúng hơn nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp xung quanh vấn đề này, để sớm có thông tin, căn cứ chi tiết báo cáo Thủ tướng Chính phủ đề xuất giải pháp phù hợp. Ban IV kiến ​​nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép Ban làm việc với Bộ Tài nguyên và Môi trường trong quá trình này để tư vấn hiệu quả và thiết kế các chương trình hữu ích cho doanh nghiệp.

Written by 

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *