Qua những câu chuyện truyền miệng, người dân địa phương vẫn tin rằng đây chính là lăng mộ của Thái hậu Phạm Thị Ngọc Trân – người phụ nữ trung thành, hết lòng vì thần sông, giúp Lê Thái Tổ “mười năm nằm gai nếm mật”, đánh tan thiên hạ. Quân Minh xâm lược, giành lại vận mệnh và mở ra một thời kỳ cực thịnh trong thời kỳ phong kiến của nước Nam ta.
Trong cái nắng gay gắt cuối tháng 7, tôi theo ông Hoàng Hùng – Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Thọ Xuân – Yên Định sang sông bên ngôi mộ cổ. Vào mùa này, nước sông Chu không còn hiền hòa, trong xanh mà đỏ ngầu, nặng phù sa đổ về phía Đông.
“Xa xa bên kia giới tuyến là nơi đặt ngôi mộ. Vào mùa đông, bà con có thể chèo ra, đưa sào xuống sâu hơn 1m sẽ đạt mặt nước. Người dân thôn Thượng Vôi, xã Xuân Hòa vẫn tin rằng đây là lăng của Thái hậu Phạm Thị Ngọc Trân nên vào những ngày kỵ, ngày lễ, người dân vẫn mang hoa về sông như một lời tri ân. , cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt ”, anh Hùng chỉ tay về dòng sông Chu nói với tôi.
Bên cây sưa cổ thụ tỏa bóng mát, ông Hùng kể cho tôi nghe những câu chuyện về ngôi mộ cổ còn nhiều nghi vấn này. Nhiều tài liệu lịch sử còn ghi lại: Từ khi dấy binh ở núi Lam Sơn, vua Lê Thái Tổ có 3 đời vợ. Người thứ nhất là Thần Phi (tên thật là Trịnh Thị Lư, người làng Bãi Đỏ, Xuân Bái, Thọ Xuân nay); Bà thứ hai là Huệ Phi (tên thật là Phạm Thị Nghiêu) và bà vợ thứ ba là Trần Thị Ngọc Trân (sau đổi là Phạm Thị Ngọc Trân).
Tương truyền, một lần vua Lê Thái Tổ khi phải qua sông khi trời đã chập choạng tối, chợt thấy thấp thoáng một cô thôn nữ mang dáng vẻ quý phái của một người phụ nữ xinh đẹp, sắc sảo nhưng dịu dàng. ăn nói nhẹ nhàng, tao nhã, xứng danh một bà, một bà hoàng.
Lê Lợi hỏi thăm thì biết cô gái họ Trần, tên là Ngọc Trản, quê ở làng Quan Lại, huyện Lôi Dương (nay thuộc làng Quan Đội, xã Thọ Diên, huyện Thọ Xuân), liền hỏi cưới. cô ấy. Khi Lê Lợi xưng là Bình Định Vương, dựng cờ khởi nghĩa, bà đã theo hầu cận, trải qua bao gian khổ hiểm nguy.
Năm Canh Tý (1425) chú của Lê Thái Tổ vây thành Nghệ An, khi nghĩa quân chuẩn bị vượt sông, nghĩa quân chuẩn bị vượt sông, trời nắng to, lòng sông nổi lên. nổi, quân lính đang cưỡi ngựa. Voi không thể qua sông. Vương liền gọi điện cho người lớn tuổi để xin việc.
Người dân địa phương cho biết, ở khúc sông này có một vị thủy thần tên là Phó Hộ canh giữ, cứ 3 năm người dân lại bắt một phụ nữ làm lễ cầu siêu. Bây giờ, muốn qua sông an toàn thì phải làm lễ tế thần theo tục lệ xưa.
Đêm ấy, gần rạng sáng, họ Vương nằm mơ thấy thủy thần đến bên giường nói: “Tướng quân gả cho thiếp, ta sẽ giúp tướng quân vượt sông đánh tan giặc Ngô, dựng nghiệp đế vương. ” .
Tỉnh dậy, Vương gọi điện cho 3 người vợ của mình để kể lại giấc mơ. Trong khi hai người vợ đầu còn đang lưỡng lự, bối rối thì người vợ thứ ba là Phạm Thị Ngọc Trân đã đứng lên tự nguyện xin làm vật tế thần và giúp đỡ chồng. Lúc này, con trai của bà là hoàng tử Lê Nguyên Long vừa tròn 2 tuổi.
Đến ngày 24/3, sau khi giao con cho người hầu chăm sóc, Bình Định Vương đã rơi lệ, lập bàn thờ, đưa người vợ đã khuất về với thần sông.
Sau khi bóng Phạm Thị Ngọc Trân khuất vào dòng nước lạnh, lạ thay, trời đất như mây mù, mặt sông bỗng lặng sóng, nghĩa quân cùng voi chiến nhanh chóng vượt sông tiến công vào kinh thành. Nghệ An, rồi đánh tan quân giải phóng một vùng đất rộng lớn từ Nghệ An đến Thuận Hóa, từ đây làm bàn đạp đưa quân ra Bắc đánh đuổi giặc Minh ra khỏi đất nước vào cuối năm 1427, lên ngôi. lên ngôi vua Lê Thái Tổ, mở ra nền độc lập tự chủ lâu dài, thịnh vượng cho dân tộc Đại Việt.
Nói về bà Phạm Thị Ngọc Trân. Sau khi Lê Lợi kéo quân qua cửa Triều Khẩu, sai người ở lại, đợi xác công chúa nổi lên sẽ đưa về làm lễ tang.
“Ngay cả trong mùa đông, khi nước sông Chu cạn kiệt, ngôi mộ không lộ ra ngoài mà vẫn nằm dưới nước. Tuy nhiên, có thể thấy rõ một khối hợp chất bằng phẳng, rộng 2m, rộng 4m nằm sâu dưới mặt nước từ 1-2 gang tay. Nhiều tàu thuyền mỗi khi đến đoạn sông này đều phải giảm tốc độ rồi cầu mong cho dòng sông được bình yên ”, ông Hùng nói.
“Vậy ông căn cứ vào yếu tố lịch sử nào để chứng minh đây là lăng của Thái hậu Phạm Thị Ngọc Trân?” – Tôi hỏi cắt ngang dòng suy nghĩ của anh Hùng.
“Đúng vậy, để chứng minh đây là lăng mộ của Từ Hi Thái hậu, tôi đã dày công tìm kiếm, tìm kiếm các tài liệu cổ, ghi chép bằng chữ Hán, tài liệu của Viện Viễn Đông Bác Cổ rồi tổng hợp, chắt lọc và xâu chuỗi các chi tiết lịch sử lại với nhau. Từ đó đưa ra những bằng chứng hết sức thuyết phục để khẳng định đây chính là ngôi mộ cổ của Từ Hi Thái hậu ”, ông Hùng nói.
Rồi ông dẫn chứng: Vào năm Thuận Thiên, sau khi đánh đuổi hoàn toàn quân Minh ra khỏi đất nước, Lê Lợi lên ngôi, sai quân sĩ đưa linh cữu bà từ Nghệ An về chôn ở Thanh Hóa. Khi di chuyển đến xã Thịnh Mỹ, Thọ Diên thì trời tối, không kịp qua sông nên đành phải trú bên sông.
Ngày hôm sau, nơi đùn quan tài của bà mối vào một ngôi mộ. Quân và dân đều cho rằng đây là ý đồ của bà nên đã cho chôn cất tại đó và dựng miếu Hiển Nhân để thờ.
Đến đời vua Lê Hiển Tông, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 10 (1749), tháng 8, Thanh Hóa xảy ra trận lụt lớn, nước sông dâng cao, mộ Hoàng thái hậu Phạm Thị Ngọc Trân ở Thịnh Mỹ bị sạt lở. . Theo dòng sông, quan tài trôi theo dòng nước trôi đến Vũng Hương thuộc thôn Hưng Phan, xã Thọ Hải, quan tài quay ba vòng rồi trôi về thôn Thượng Vôi và tái định cư. Đây là những chi tiết có thật được ghi trong gia phả của dòng họ Nguyễn Mậu ở Thịnh Mỹ.
Bởi trong trận lũ đó, phần mộ của vợ chồng ông Nguyễn Như Lãm cũng bị nước lũ làm sạt lở, lộ cả quan tài. Triều đình sai quan đại thần Nguyễn Khâm Thận về chôn cất linh cữu của Thái hậu Phạm Thái ở làng Thượng Vôi và lập đền thờ Quốc Thái mẹ là Linh Từ.
Năm Bảo Đại thứ 16 (1942), sông Chu đổi dòng, đền có nguy cơ bị cuốn trôi, nhân dân Thượng Vôi dời đền về vị trí hiện nay. Như vậy, chỉ trong vòng 325 năm (1425 – 1749), mộ Hoàng thái hậu Phạm Thị Ngọc Trân đã 3 lần cải táng, trong đó 266 năm ngôi mộ còn lại với nhân dân thôn Thượng Vôi, xã Xuân Hòa.
Dưới góc độ nghiên cứu lịch sử, ông Hùng cho rằng: Đây là một ngôi mộ có thật, nhưng dưới góc độ khoa học khảo cổ thì vẫn cần được nghiên cứu một cách nghiêm túc. Để xác thực thông tin mình có được, ông nhờ người lặn xuống đáy sông Chu, cắt khúc đinh lăng, đem phơi khô rồi xay thành bột, đổ vào bát nước thì thấy nổi váng màu vàng. . nổi lên.
Ông Hùng phân tích, nếu là đá tự nhiên thì không thể có váng như vậy. Nhưng đây có thể là hợp chất làm từ đất sét, mật mía, vỏ sò (nguyên liệu phổ biến để làm quan tài của các triều đại phong kiến).
“Hợp chất lạ dưới lòng sông Chu có phải là lăng mộ của Thái hậu Phạm Thị Ngọc Trân hay không, có lẽ cần phải có sự vào cuộc nghiêm túc của các nhà khảo cổ học, những người là chuyên gia trong lĩnh vực khoa học và công nghệ này. Phải khai quật nó mới được.” Nếu được chứng minh, đây sẽ là một di tích rất có giá trị về mặt truyền thống và văn hóa “, ông Hùng nói.
Đồng tình với nhà sử học Hoàng Hùng, ông Nguyễn Xuân Hải, Phó Chủ tịch UBND huyện Thọ Xuân bày tỏ: Đây có phải là lăng của Thái hậu Phạm Thị Ngọc Trân hay không thì cần phải tổ chức khảo cổ. , nghiên cứu nghiêm túc và quy mô mới có thể được xác nhận.
Tuy nhiên, đây là một bộ phận hữu cơ, gắn với di tích đền Quốc Thái Mẫu Linh Từ được xây dựng tại thôn Thượng Vôi, xã Xuân Hòa. Trong khi chờ đợi sự quan tâm của các nhà khảo cổ học, giải mã những bí ẩn và nghi ngờ. Trước mắt, huyện đã lập và triển khai dự án trùng tu, xây dựng đền thờ Hoàng Thái Hậu để phát huy giá trị vốn có.