Ngoài giá trị về lịch sử – văn hóa – kiến trúc – nghệ thuật, Khu di tích quốc gia đặc biệt Lam Kinh sở hữu 5 bảo vật quốc gia. Đây đều là những văn bia cổ: bia Vĩnh Lăng (bia vua Lê Thái Tổ); Bia Khôn Nguyên Chí Đức (bia Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao); Bia Chiêu Lăng (bia vua Lê Thánh Tông); Bia Dụ Lăng (bia vua Lê Hiển Tông) và bia Kính Lăng (bia vua Lê Dụ Tông) … Mỗi kho tàng bia đá là một di sản điêu khắc đẹp, tư liệu lịch sử có giá trị và bất di bất dịch. Ở đó còn lưu lại những câu chuyện về các bậc tiền nhân đã góp phần làm nên những thăng trầm hào hùng của nhà Hậu Lê trong lịch sử dân tộc.
Bảo vật quốc gia – bia Chiêu Lăng (bia vua Lê Thánh Tông).
Bia Vĩnh Lăng: Bản hùng ca trên đá
Sau 6 năm trị vì, vua Lê Thái Tổ băng hà (1433) được đưa về an táng tại lăng núi Lam Kinh. Lăng vua Lê Thái Tổ được xây dựng trên một dải đất bằng phẳng, tựa lưng vào núi Dâu, phía trước là núi Mục, núi Chùa, bên trái là núi Hổ, bên phải là núi Hương và núi Hàm Rồng, tạo thành thế ngai vàng. với “Long bái thần hổ”… Cách lăng vua Lê Thái tổ không xa là tấm bia Vĩnh Lăng – bảo vật quốc gia đầu tiên được công nhận ở Lam Kinh. Bia Vĩnh Lăng được dựng sau khi vua Lê Thái Tổ mất, cách ngày nay gần 600 năm.
Bia Vĩnh Lăng được coi là một công trình kiến trúc nghệ thuật đặc sắc và tiêu biểu: bia và rùa làm bằng đá trầm tích màu xanh xám nguyên khối có dấu vết của các loài nhuyễn thể sống dưới nước (nghêu, sò, hến). . Trên thân bia chạm khắc hoa văn hình rồng sắc nét, sống động, xen kẽ là họa tiết hoa cúc mềm mại là hình người đang ngồi niệm Phật. Bên dưới là xác rùa đeo bia trong tư thế bơi lội… các nhà nghiên cứu văn hóa đánh giá bia Vĩnh Lăng là “tư liệu quý để nghiên cứu nghệ thuật trang trí và điêu khắc ở Việt Nam thời Lê sơ”.
Bên cạnh yếu tố kiến trúc, thẩm mỹ, giá trị của tấm bia Vĩnh Lăng còn được khẳng định về nội dung khắc trên văn bia. Chỉ với 750 chữ Hán được khắc trên nền chữ Triển, nhưng với tài năng anh hùng do văn thần Nguyễn Trãi sáng tác, nội dung của tấm bia Vĩnh Lăng đã trở thành một tư liệu lịch sử ngắn gọn, súc tích và rất đỗi hào hùng. Từng lời, từng chữ khi vang lên khiến ta có cảm giác những sự kiện, con người trong lịch sử đang hiện ra trước mắt. Tổ tiên họ Lê khi đến đất Lam Sơn, thấy phong cảnh hữu tình, vạn vật tươi tốt nên đã lấy đất ấy làm nơi dựng nghiệp, đến Bình Định Vương Lê Lợi nối gót cha ông. để quy tụ các nghệ sĩ nổi tiếng từ khắp nơi trên thế giới. Lam Sơn phất cờ khởi nghĩa, tạo nên di sản Hậu Lê làm rạng danh nước Đại Việt.
Tài liệu lịch sử có thể bị thay đổi ở đâu đó, nhưng nội dung khắc trên bia Vĩnh Lăng vẫn không thay đổi. Đó là bằng chứng hùng hồn khẳng định vai trò, vị trí của vùng đất thiêng Lam Kinh, của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và Hoàng đế Lê Thái Tổ – người đặt nền móng đầu tiên cho triều đại lâu đời nhất trong lịch sử của dân tộc. dân tộc.
Tấm bia Chiêu Lăng: Gợi nhớ đấng minh quân
Nếu vua Lê Thái tổ là người có công khai lập ra nhà Hậu Lê thì cháu nội của ông – vua Lê Thánh Tông lại được lịch sử nhắc đến với vai trò đưa nhà Lê đạt được những thành tựu to lớn, chói lọi trên thế giới. tất cả các lĩnh vực. Đất nước không chỉ thái bình thịnh trị mà còn phát triển, mở rộng lãnh thổ, tạo nên thời kỳ phát triển đỉnh cao của thời Hậu Lê.
Mặc dù là con vua Lê Thái Tông, nhưng cuộc đời thời niên thiếu của Thái tử Lê Tư Thành (Lê Thánh Tông) phải trải qua nhiều gian truân trước sự tranh giành quyền lực của các thế lực trong triều lúc bấy giờ. giờ: “Thần tính được sinh ra đã biết và không bao giờ rời khỏi trang sách; vốn đã có một tài năng lớn mà khâu dàn dựng cũng rất chăm chút ”.
Nhờ sự chịu khó, rèn giũa thuở thiếu thời nên khi lên ngôi, vua Lê Thánh Tông đã sớm ý thức được trách nhiệm của một bậc quân vương: “Nội phủ vừa sửa xong, ngoại đã bắt tay vào quét dọn. ngoan cố chống lại lời dạy, sai tướng đi cày gốc; Khi Sơn Man náo loạn biên cương, sai quân càn quét các đồn lũy, Chiêm Thành là chó và lợn, tội cũ chồng chất nên cưỡi thuyền rồng ra chỉ huy. sáu quân thắt cổ Trà… Nhân nghĩa, đền ơn đáp nghĩa sâu sắc trong lòng dân, công đức vượt xa các đời trước ”.
Những nỗ lực cai trị đã khiến Đại Việt dưới thời vua Lê Thánh Tông trở thành một cường quốc trong vùng lúc bấy giờ. Sử sách chính thống cũng ghi lại đây là thời kỳ vàng son rực rỡ của chế độ quân chủ Việt Nam. Cũng dưới thời vua Lê Thánh Tông, Bộ Quốc triều hình luật thời Hậu Lê – Luật Hồng Đức được hoàn thiện. Luật Hồng Đức đã góp phần hình thành nhà nước pháp quyền sớm của Đại Việt. Đã nhiều thế kỷ trôi qua, hậu thế vẫn ghi nhớ câu nói nổi tiếng của vua Lê Thánh Tông về pháp luật: “Pháp luật là phép tắc chung của Nhà nước, ta và các ngươi phải tuân theo”.
Không chỉ hiển thánh khi lên ngôi, dũng cảm xông pha nơi chiến trường, vua Lê Thánh Tông còn được người đời sau kính phục bởi tài văn chương lỗi lạc. Di sản văn học của vua để lại khoảng 300 bài thơ chữ Hán và Hồng Đức quốc âm thi tập (chữ Nôm), ông còn được biết đến là người sáng lập ra Hội Tao Đàn thời bấy giờ.
Khi vua Lê Thánh Tông băng hà, vua được đưa vào núi lăng ở Lam Kinh để an táng chu đáo. Đồng thời, dựng bia Chiêu Lăng cách lăng mộ ông khoảng 200m. Tấm bia Chiêu Lăng không chỉ có giá trị về mặt kiến trúc điêu khắc, bảo vật còn là tư liệu lịch sử để hậu thế khi nhìn vào sẽ nhớ ơn vị vua kiệt xuất. Biết ơn công lao của tổ tiên để hiểu rằng, là người Việt Nam làm sao không trân trọng từng ngọn núi, con sông, tấc đất mà tổ tiên đã phải hy sinh, gây dựng.
Bia Khôn Nguyên Chí Đức: Câu chuyện về Từ Hi thái hậu mẫu mực
Trong số 5 bảo vật quốc gia ở Lam Kinh, có 4 văn bia thuộc các đời vua, chỉ có tấm bia Khôn Nguyên Chí Đức – tấm bia của Hoàng thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao – thân mẫu của vua Lê Thánh Tông. Bà cũng là Từ Hi Thái hậu được mọi người nhớ đến bởi “công, dung, ngôn, hạnh” của người mẹ thiên hạ.
Ca ngợi công đức của bà, bia Khôn Nguyễn Chí Đức viết: “Khí là mẹ, âm dương là linh thiêng; Nếu mặt trăng là mẹ, nó là bí ẩn; Nếu quẻ Khun là mẹ thì vạn vật đều từ đó mà sinh ra; Nếu Thái hậu là mẹ thì việc cai trị sẽ thành công … Thánh Tông hoàng đế là một nhà mưu lược tài ba, thần Vũ Anh Minh, nhưng mỗi khi được Thái hậu dạy điều gì, bà đều ngày đêm kính cẩn tuân theo. Chính vì vậy mà lễ nhạc, văn chương rạng rỡ rõ rệt, phong thái thư sinh, thói quen của mọi người đều thay đổi hẳn, trở nên thuần khiết, tất cả đều nhờ vào sức lực của Từ Hi Thái hậu ”.
Còn Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao được triều thần trên dưới ngưỡng mộ không chỉ vì bà là mẹ của vua. Ở chị hội tụ đầy đủ những phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam, để người trong giới học hỏi: “Không làm điều trái lẽ, không ở không công, nghiêm khắc nhưng không ác, giản dị nhưng không ác độc. tao nhã lịch sự, cử chỉ thường lễ độ … Trong cung, kẻ giàu sang kẻ hèn hạ đều gọi Ngài là Phật sống, những người phụ nữ Việt Nam ở bên giúp chồng con làm giàu trong lịch sử không phải là ít. Nhưng, để trở thành bậc mẫu nghi thiên hạ, được ca tụng và yêu mến như Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao có lẽ cũng hiếm.
Vì vậy, đánh giá về nàng, bia Khôn Nguyên Chí Đức viết: “Đối với Thái Tông có công chăm sóc giúp đỡ, đối với Thánh Tông có công lo đảo, đối với Thánh Thượng (Hiền Tống). Thì hết lòng yêu thương. Đức tính sánh với trời đất, công lao rạng rỡ Tam Thánh, xứng danh là những vị hoàng hậu đứng đầu nước Đại Việt ”.
Bài và ảnh: Khánh Lộc