Theo tài liệu, nghề nuôi cá lồng bè xuất hiện ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) bắt đầu từ lồng bè của ngư dân Châu Đốc (tỉnh An Giang) ở đầu nguồn sông Cửu Long rồi lan ra các địa phương khác. Có 2 phụ lưu sông Tiền và sông Hậu đi qua.
Nghề của người giàu
Ở đầu nguồn sông Hậu, hàng nghìn bè của ngư dân đang oằn mình trước giông tố và dòng nước lũ chảy xiết.
Ông Phan Thanh Phú bên bè cá lớn nhất ĐBSCL
Anh Phan Thanh Phú (43 tuổi) vất vả chống đỡ hai chiếc bè dưới trời mưa tầm tã cho biết: “Đây là lồng bè lớn nhất ĐBSCL từ trước đến nay. Chiếc bè có chiều ngang 10 m, chiều dài 20 m, tất cả của tôi. cha đã bỏ tiền mua với tổng kinh phí hơn 1 tỷ đồng cách đây hơn 30 năm, nên thời điểm đó, chỉ những người có tiền mới đầu tư nuôi cá bè, vì vốn phải tự bỏ ra, bặt vô âm tín. Tổ chức hỗ trợ cho nghề này. Cha tôi phải rất tin tưởng vào kỹ thuật nuôi cá của mình mới dám đầu tư lớn như vậy “.
Rồi ông Phú khẳng định: “Đúng là sau khi đóng bè này, vụ nuôi cá đầu tiên của bố tôi đã thu hồi vốn đầu tư, thậm chí có lãi. Lúc đó kinh tế đất nước chưa phát triển như bây giờ. Ở nông thôn. nhiều nơi còn nghèo nàn, lạc hậu, nhưng ở hòn đảo hấp dẫn này, ai nuôi cá lồng bè đều trở thành tỷ phú.
Nghề nuôi cá lồng bè xuất hiện ở Đồng bằng sông Cửu Long vào khoảng năm 1968, do những ngư dân Việt kiều từ Campuchia về Châu Đốc lập nghiệp. Ban đầu, ngư dân chỉ nuôi cá bằng bè tre theo mô hình của Campuchia. Người ta nối từng thân tre dài hàng chục mét theo hình chiếc thuyền để dễ dàng di chuyển ra phố chợ bán lẻ. Sau đó, ngư dân cải tiến thành thuyền hình chữ nhật để mở rộng khối lượng nuôi cá.
Để làm một chiếc bè có diện tích gần 200 m2, gắn vào lồng nằm dưới lòng sông có thể tích từ vài chục đến hơn 100 m3, cần 2.400 cây tre dài – một số lượng không hề nhỏ. sự đầu tư.
Nghề nuôi cá bè đóng góp hàng triệu tấn thủy sản hàng năm cho ĐBSCL Ảnh: DUY NHƯ
Nghề nuôi cá bè phát triển mạnh vào khoảng năm 1974-1977, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh An Giang lúc bấy giờ. Chỉ tính riêng ở Châu Đốc thời điểm này đã có hơn 7.000 bè nuôi với sản lượng trên 70.000 tấn cá / năm.
Sau này, ngư dân đóng bè bằng gỗ sao, gỗ bên … là những loại gỗ bền khi đưa xuống nước. Lồng được thiết kế bằng lưới inox dạng hình hộp chữ nhật, được cố định bằng hệ thống neo và hệ thống phao bằng phuy hoặc ống nhựa composite bịt kín hai đầu. Bên trên bè có đầy đủ tiện nghi sinh hoạt. Giá đầu tư của một chiếc bè gỗ có thể từ vài trăm triệu đến hàng tỷ đồng. Vì vậy, nghề nuôi cá lồng bè luôn được coi là nghề dành cho những người có tiền.
Đứng sau An Giang là Đồng Tháp, tất cả các tỉnh, thành còn lại của ĐBSCL cũng đang quan tâm phát triển nghề nuôi cá lồng bè trên sông, trên biển …, hàng năm để đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu. xuất khẩu hàng triệu tấn.
Chấp nhận rủi ro
Dù đã xuất hiện hơn nửa thế kỷ, tạo kế sinh nhai và làm giàu cho bao thế hệ cư dân vùng sông nước, đồng thời góp phần không nhỏ vào sự phát triển chung của nghề nuôi trồng thủy sản ở Đồng bằng sông Cửu Long, nghề nuôi cá bè vẫn tồn tại và phát triển cho đến ngày nay , gần như nhờ vào ý chí, kinh nghiệm và sự sáng tạo của ngư dân. Các ngành chức năng địa phương chủ yếu quản lý, quy hoạch, tạo điều kiện hỗ trợ ngư dân kéo điện, nước sinh hoạt.
“Kỹ thuật nuôi cá được truyền từ người có kinh nghiệm cho người chưa có kinh nghiệm. Giá cả đầu vào, đầu ra phụ thuộc vào thương lái và thị trường. Nhìn chung, ngư dân” tự bơi “trong mọi hoàn cảnh. Nghề này cũng không được các tổ chức tín dụng hỗ trợ, vì Hầu hết các ngân hàng không coi chiếc bè là một hình thức thế chấp, đối với ngư dân, chiếc bè là một tài sản có giá trị lớn, có thể chuyển nhượng cho nhau hàng tỷ USD nhưng đối với ngân hàng thì nó không có giá trị gì. Làm ăn thất bát, ngư dân không có tiền dự phòng phải vay bên ngoài lãi suất cao, phá sản là do nguyên nhân này ”- ngư dân Phan Thanh Phú bộc bạch.
Tuy nhiên, ngư dân nơi đây luôn lạc quan với nghề nuôi cá bè. Họ cho rằng sống giữa mênh mông sông nước này không thể làm gì khả thi hơn là nuôi cá.
“Nghề này ngoài kỹ thuật, kinh nghiệm thì đôi khi phải chấp nhận rủi ro như thời tiết, môi trường, thị trường. Nhưng dù có thăng trầm cũng phải kiên trì, chấp nhận làm lại từ đầu không hối tiếc. Rất tiếc, nhiều người, háo hức thu hồi hoặc bị ám ảnh bởi thua lỗ, thường tính toán sai lầm, thiếu thực tế dẫn đến phá sản.
Rồi anh tiếp tục giải thích, hiện nay nghề nuôi cá trên bờ phát triển mạnh vì có thể nuôi với số lượng lớn, dễ xử lý các khâu kỹ thuật hơn so với nuôi cá lồng bè trên sông. Sản lượng cá trong ao cũng cao hơn, nhưng cần nhiều đất hơn. Mỗi phương pháp đều có nhược điểm riêng. Mối quan tâm chính của người nuôi cá hiện nay là giá nguyên liệu đầu vào, rồi mối lái, giá …
Nuôi lồng bè ở Đồng bằng sông Cửu Long là mô hình nuôi trồng thủy sản bền vững
Theo đó, giá thức ăn cho cá hiện đã tăng gấp đôi so với giá bình quân nhiều năm trước. Ngoài ra, giá các loại vật tư như thùng phuy, ống nhựa và các nhu yếu phẩm khác tăng gần gấp đôi, trong khi giá cá vẫn ổn định, có lúc dao động nhẹ nhưng thường giảm nhiều hơn tăng.
Lâu nay, người nuôi trồng thủy sản khắp ĐBSCL đã quen với việc phụ thuộc vào thương lái. Họ sống cũng nhờ thương lái nhưng nhiều khi “ngậm trái đắng” cũng do thương lái. Theo những ngư dân có kinh nghiệm, thương lái thu mua cá có vô số chiêu trò để trục lợi từ mồ hôi nước mắt của bà con.
“Thủ đoạn phổ biến là họ chê cá bị vàng, bị bệnh, cần được bồi dưỡng thuốc, thức ăn một thời gian mới mua được với giá cao. Họ làm như vậy để bán thuốc, thức ăn cho ngư dân để kiếm ăn. lợi nhuận từ thuốc men. Người đánh cá lẽ ra có thể bán được cá bỗng phải gánh thêm chi phí, tệ hơn là họ đã cho cá quá liều lượng thuốc rồi ép giá. Bán cá không kịp thì cá chết, tuy nhiên lúc này thương lái đã móc nối với một số người ở nhà máy chế biến để đưa cá về kịp với giá cá sống, đồng thời giả vờ không mang đủ. tiền mặt trả để hù dọa ngư dân, bị cướp tiền nhưng không dám bán, sau đó cho người khác ra mặt, mang đủ tiền mặt nhưng trả giá thấp hơn, vì an toàn nên ngư dân chấp nhận bán với giá bất ngờ để nhận tiền mặt ”- ông Phú tiết lộ.
Phá vỡ thế độc canh
Ông Lê Chí Bình, Phó Chủ tịch Hiệp hội Nuôi trồng và Chế biến Thủy sản An Giang cho biết, tổng số lồng bè nuôi trồng thủy sản trên sông của An Giang gần 6.000 chiếc, sản lượng gần 100.000 tấn cá / năm. giá trị sản lượng trên 3.000 tỷ đồng. Các vùng nuôi tập trung hiện nay là ngã ba sông giáp ranh với các địa phương như An Phú, Châu Đốc, Tân Châu, Phú Tân; đoạn sông Hậu thuộc các huyện Châu Phú, Châu Thành, An Phú và thành phố Long Xuyên; Đoạn sông Tiền huyện Tân Châu; các đoạn sông Kênh Xáng, sông Cái Vừng …
Nuôi trồng thủy sản lồng bè đã góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho các hộ nuôi, đóng góp giá trị lớn cho ngành thủy sản và phát triển kinh tế – xã hội nói chung cho tỉnh An Giang.
“Hồi đó chưa hiểu kỹ thuật, thuốc men hạn chế nên nguồn cá hao hụt nhiều, hiệu quả không cao nhưng vẫn ăn được, do ít người nuôi nên cá bán lấy tiền. Được giá, sau này cá hú, cá ba sa nuôi được, nhiều người chạy theo cưa cây đóng bè nuôi cá, có năm giá cá rớt thê thảm khiến nhiều hộ phải treo bè ”- ông Ông Nguyễn Văn Thuận (52 tuổi), chủ 6 bè cá ở Cư xá xã Mỹ Hòa Hưng (TP. Long Xuyên), nhớ lại.
Qua những lần thất bại, ngư dân rút kinh nghiệm không chỉ thả cá tra mà đa dạng hóa con giống. Họ chọn những loại cá dễ nuôi, đầu ra tốt như: cá bơn, cá mòi, cá mòi … Từ đó, nghề nuôi cá bè mới trụ được trên thị trường.
Anh Thuận cho biết, để tránh trường hợp thả nuôi đồng loạt cá bị tràn ra chợ, anh thả nuôi mỗi bè cách nhau 1-2 tháng. Với cách nuôi luân canh như vậy, năm nào bè cá của anh Thuận bán được giá cao. Với 6 bè có diện tích 70 – 80 m2, mỗi năm anh Thuận cung cấp cho thị trường gần 100 tấn cá các loại, lãi hàng tỷ đồng.
Kiểm soát để đảm bảo chất lượng
Năm 2017, UBND tỉnh An Giang điều chỉnh quy hoạch thủy sản trên địa bàn, trong đó có nuôi trồng thủy sản lồng bè.
UBND tỉnh An Giang đánh giá, thời gian qua, công tác quản lý nuôi trồng thủy sản lồng bè được các sở, ngành, địa phương triển khai nghiêm túc, hiệu quả; kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân vi phạm theo quy định của pháp luật; đẩy mạnh công tác tuyên truyền trong công tác quản lý nuôi trồng thủy sản lồng bè. Theo định hướng của tỉnh, việc nuôi cá bè cần được kiểm soát về số lượng, diện tích nuôi, kỹ thuật nuôi để đảm bảo các vấn đề liên quan như chất lượng nước, dịch bệnh, giao thông, cảnh quan … và hiệu quả. nền kinh tế. Cần lập Đề án “Sắp xếp lồng bè nuôi trồng thủy sản tỉnh An Giang đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2045” để xây dựng kế hoạch phát triển và các giải pháp, tiêu chí phát triển nghề nuôi cá bè của địa phương. một cách hiệu quả và bền vững trong tương lai.