(TN&MT) – Chưa bao giờ vấn đề môi trường sinh thái lại được đặt ra cấp bách như hiện nay. Các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt và thiên tai đang đặt con người vào tình thế phải suy nghĩ lại về cách chúng ta sống và ứng xử với môi trường.
Sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp đã mang lại nhiều lợi ích cho con người, nhưng cũng chính ngành công nghiệp đang từng bước hủy hoại môi trường. Đứng trước thực tế đó, văn chương là một cách nói, một câu hỏi, một lời cầu hôn con người khi cùng chung sống trong ngôi nhà trần gian.
Tầm nhìn về một nền văn học toàn cầu do Giáo sư David Damrosch gợi lên, dựa trên những quan sát về các chủ đề tầm quan trọng của con người, đang diễn ra trên khắp thế giới. Môi trường, sinh thái là một chủ đề như vậy.
Văn học sinh thái “là cách gọi hiện đại của các tác phẩm văn học ra đời trong bối cảnh môi trường sinh thái ngày càng xấu đi, nội dung của chúng thể hiện trách nhiệm xã hội của nhà văn đối với vấn đề này.” (Phê bình sinh thái là gì ?, NXB Hội Nhà văn, 2017, trang 5). Như vậy, nội hàm của khái niệm văn học sinh thái đặt ra hai yêu cầu, cũng có thể coi là hai phạm trù cơ bản của một tác phẩm văn học sinh thái: một là: nhận thức hiện thực sinh thái; Thứ hai là: có ý thức tôn trọng sinh thái, lấy sinh thái làm trung tâm.
Hai thể loại này phải bao hàm những vấn đề chính, có thể coi là tiêu biểu của văn học sinh thái: thứ nhất: cảnh báo hiện thực sinh thái; thứ hai: phê phán những thái độ, hành động phá hoại môi trường sinh thái; thứ ba: sửa chữa hoặc làm rõ những mơ hồ sinh thái trong cộng đồng (từ góc độ văn học và văn hóa); thứ tư: khơi dậy, thúc đẩy, hiện thực hóa các vấn đề về nhận thức, niềm tin, đạo đức hoặc hành động của con người.
Dựa trên những đặc điểm này, rõ ràng ở Việt Nam, các tác phẩm văn học sinh thái khá hiếm. Mặc dù vậy, mặc nhiên hoặc ở một mức độ nào đó chưa hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu của thể loại, vẫn còn khá nhiều tác giả, tác phẩm liên quan mật thiết đến môi trường sinh thái.
Có thể điểm qua đây một số tác phẩm như: Đất rừng phương Nam của Đoàn Gôi, Con voi ở công viên Thủ Lệ của Ngô Văn Phú, Chuyện của ông Mộng, Rừng muối của Nguyễn Huy Thiệp, Tấm Cám của Y Ban, Thần và bướm của Đỗ Minh Tuấn, Sát thủ cánh đồng, ĐBP, Có một người đã rời phố của Nguyễn Quang Thiều, Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư, Người đi chưa về của Nguyễn Thế Hùng, Em sẽ lấy chồng dòng sông, Con chim thần của Nguyễn Văn Học,…
Cùng với đó, văn học dịch cũng đã mang đến cho công chúng Việt Nam nhiều tác phẩm khơi gợi cái nhìn có trách nhiệm hơn của con người đối với sinh thái (Một mình trong rừng – David Thoreau; Vùng vẫy giữa đầm lầy – Carl Heeasen…).
Văn học không đề ra giải pháp mà trong im lặng thấm sâu vào lòng người, suy nghĩ, tình cảm, khơi gợi những suy nghĩ … từ đó hình thành nhận thức, thái độ. Đọc Đất rừng phương Nam, ta thêm yêu cuộc sống thiên nhiên nơi đây, nơi gắn bó, bao bọc và nuôi sống con người. Đọc Chú voi con ở công viên Thủ Lệ, chúng ta cảm động rơi nước mắt trước sự sống chết của chú voi con. Đọc Muối của rừng, ta nhận ra con người cũng là một sinh vật trong ngôi nhà chung thiên nhiên, ta nhận ra cách cư xử trìu mến của loài vật, ta nhận ra thiên nhiên tươi đẹp và bao dung đến nhường nào. Đọc Thần và bướm, Sát thủ cánh đồng chúng ta cảm thấy xót xa cho những cánh đồng đang mất dần màu xanh trước sự phát triển mạnh mẽ của thành phố, của những âm mưu trục lợi đã làm biến dạng vùng quê. Đọc Cánh đồng bất tận, tôi yêu những mảnh đời lênh đênh, lênh đênh; yêu những cánh đồng đói khổ vẫn che chở cho con người trong cuộc sống vất vả. Đọc Họ vẫn chưa về, ta thấy nhớ những làng quê yên bình, thương những chú hươu sao bị nuôi nhốt và bóc lột dã man …
Mỗi tác phẩm là một hiện thực khiến chúng ta phải suy nghĩ về cách con người đã sống, đối xử với thiên nhiên và môi trường mà họ là một phần. Vùng vẫy giữa vũng lầy, ngoài câu chuyện hôn nhân, đây là những phản ánh thực sự đáng sợ về môi trường tự nhiên của đầm lầy nước Mỹ khi các công ty công nghiệp xả nước thải hủy hoại môi trường.
Văn học sinh thái, nói rộng ra là những trào lưu của văn học, tập trung vào vấn đề “lấy thiên nhiên làm trung tâm”, coi con người trong mối quan hệ với tự nhiên – con người chỉ là một bộ phận của tự nhiên. thiên nhiên. Ở đó, thiên nhiên xuất hiện như một thực thể sinh thái mà con người phụ thuộc vào (nó cũng đặt câu hỏi về tham vọng làm chủ thiên nhiên, thống trị thiên nhiên của con người).
Ở góc độ văn học, không có tác phẩm nào không đụng đến vấn đề môi trường và sinh thái. Đó là không gian tồn tại của các nhân vật, câu chuyện, sự kiện. Tuy nhiên, nếu hiểu kỹ hơn khái niệm văn học sinh thái với tư cách là một trào lưu, một dòng chảy, với một quan niệm rõ ràng, một thái độ cụ thể, một chiến lược viết về sinh thái một cách có ý thức thì ở Việt Nam, mạch văn này vẫn chưa thực sự phát triển. Ngay cả các bài viết về đô thị cũng là một tham chiếu sinh thái về cách thiên nhiên đã bị “cưỡng bức” trong các thành phố hiện đại.
Kể từ khi xã hội hình thành và tiến hành các cuộc cách mạng công nghiệp một cách vô độ, thiên nhiên bị bóc lột, tàn phá và bị bức tử. Mất rừng, sông bị thu hẹp và biến mất, đồng ruộng biến thành khu công nghiệp, lũ lụt, hạn hán, nước biển dâng, hiệu ứng nhà kính, bùng phát dịch bệnh … đã đặt con người vào tình thế phải xem xét lại trách nhiệm của mình. Văn học, với tư cách là một loại hình nghệ thuật, đã gắn liền với nhân văn, nhân đạo, nhân đạo, nhân đạo … tôn trọng thiên nhiên, hài hòa với thiên nhiên.
Văn học sinh thái lấy thiên nhiên làm trung tâm, nhưng không xóa bỏ tính nhân văn, nhân tính. Trong sự vận động của dòng văn học này, thiên nhiên và con người có thái độ sống bình đẳng với nhau, đáp ứng lợi ích của nhau để hướng tới sự tồn tại một cách bền vững nhất. Từ thực tiễn sáng tác văn học sinh thái và các hoạt động môi trường khác, phê bình sinh thái ra đời nhằm làm rõ mối quan hệ giữa con người và tự nhiên.
Ở Việt Nam, phê bình sinh thái đang nhận được nhiều sự quan tâm của các học giả, nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, việc dịch lý thuyết phê bình sinh thái, hiểu thế nào là văn học sinh thái, phê bình sinh thái … vẫn chưa phát triển phù hợp với thực tế biến đổi môi trường ở Việt Nam và thế giới.
Không khó để nhận thấy những “mơ hồ sinh thái” (Karen L Thornber) trong cách con người gắn bó với thiên nhiên, với danh nghĩa bảo vệ – giữ gìn thiên nhiên. Đôi khi chúng ta tìm thấy sự hài hước trong những điều mơ hồ đó. Để bảo vệ rừng gỗ lim, người dân đi chặt phá các loài cây khác xung quanh đó. Để bảo vệ động vật hoang dã, con người tụ tập thành từng khu vực (như nuôi nhốt) và can thiệp vào cấu trúc sinh tồn tự nhiên của động vật… Đau đớn hơn, khi một loài động vật được đưa vào Sách đỏ, đứng trước nguy cơ tuyệt chủng, cần được bảo vệ, thì thời điểm loài đó bị săn bắt để phục vụ những người muốn thưởng thức đặc sản.
Văn học nghệ thuật không đề xuất giải pháp cho những vấn đề nêu trên. Văn học làm cho con người nhận ra mình, nhận ra đồng loại, nhận ra những sinh linh khác, những hoàn cảnh sống khác nhau – những giá trị sống xung quanh mình, có quan hệ mật thiết, sống chết với mình. Từ nhận thức và tình cảm đó, con người hình thành thái độ và hành vi đối với thiên nhiên và môi trường. Đó là cách mà những cơn mưa lớn lặng lẽ thấm vào đất, nuôi dưỡng những mầm sống vươn lên, lưu giữ sự sống vĩnh cửu trong ngôi nhà chung mang tên đất.