Tôi tin rằng, trong cuộc đời của mỗi người, ai cũng trải qua một thời thơ ấu, được nghe mẹ ru bên võng “u u u u” để rồi khôn lớn, trưởng thành. Chiếc võng ấy, lời ru ấy theo ta suốt cuộc đời, lặn sâu vào tâm thức ta để rồi trên đường đời, có những lúc chông chênh, có lúc hụt hẫng, có lúc mất phương hướng thì nhịp điệu của lời ru ngày ấy đã cân bằng ta, làm vững bước cho ta. . tự và hướng tâm mình về cội nguồn, cội nguồn.
Đó là điểm tựa vững chắc cho ngàn đời nay, là bầu ngực nuôi dưỡng tâm hồn và nhân cách của chúng ta về lẽ sống làm người. Nhà thơ Nguyễn Duy đã từng viết rất hay rằng:
“Mẹ ru lý lẽ ở đời
Sữa nuôi dưỡng cơ thể, tiếng hát nuôi dưỡng tâm hồn
Cô ấy hát ru mẹ cô ấy … cô ấy hát ru con mình
Liệu bạn có còn nhớ nó trong tương lai không? “
Mẹ ơi! Để rồi mãi nhớ về những buổi trưa hè ở quê, ngoài vườn tre xanh rì rào tiếng võng, trong nhà, dưới mái hiên, những chiếc võng tre đan bằng những nan tre, nẹp tre. mắc kẹt. Âm thanh mượt mà, thậm chí cót két đó giống như một bản biến tấu, một bài hát đồng quê đưa bạn vào giấc ngủ. Và trong giấc ngủ bồng bềnh, mơ màng, bay bổng ấy, có cả tiếng sáo diều vi vu. Tiếng sáo hay tiếng gió, tiếng đồng hay tiếng đồng, tiếng đồng hay tiếng người thăng hoa từ hồn quê cảnh vật mà ân tình lan tỏa biết bao!
Nó giống như một “Bản sắc văn hóa“Đánh dấu và ghi lại một cách tự nhiên và yên bình, để bạn có thể lưu lại, sau đó chắt lọc thành những bài dân ca, dân ca, những làn điệu, làn điệu đồng quê. Vâng, sau này, chúng ta sẽ không bao giờ quên được âm thanh kẽo kẹt mà nhà thơ chiến sĩ Hữu Thỉnh trên đường hành quân mắc kẹt dưới võng ”Bầu trời vuông“thổn thức, một nỗi niềm của một người lính Thuần Việt đi ra từ ruộng của mẹ, ăn hạt lúa mẹ cấy và mẹ gặt. Và anh thốt lên:”Nằm võng muốn nghe tiếng võng ”. Chiếc ô võng găm chặt vào thân cây không phát ra tiếng, ông nhớ tiếng võng tre quê mình, thật ra, nhà thơ nhớ tiếng võng mẹ ru con trong thửa ruộng nhỏ của mình.
Không biết ai đã sáng chế ra chiếc võng, dù chiếc võng được trang bị vũ khí không thể thiếu trong ba lô của người lính là chiếc “giường di động” khi hành quân. Chiếc võng ấy mang hình ảnh người lính ”.Ngủ rừng trong chiến đội ” với tư thế “Người đứng về phía mình, súng cũng ở phía mình“trong thơ Nguyễn Đức Mậu. Những binh đoàn ra trận vác võng bên mình:
“Treo võng trên đường Trường Sơn
Hai bạn ở hai đầu khoảng cách
Đường ra trận mùa này đẹp quá”
(Phạm Tiến Duật)
Và “Bài ca bên cánh võng“- một bài hát của nhạc sĩ Nguyên Nhung thật da diết, thật lãng mạn, mang âm hưởng của tiếng suối trong rừng:
“Dừng lại bên suối võng
Nhìn lên bầu trời trong xanh
Hoa rừng thơm ngát là đất nước cho ta
Tôi yêu bạn, gửi tình yêu trong hoa”.
Tình yêu cách mạng và tình yêu cuộc sống ấy còn là sức mạnh tiềm tàng bắt đầu từ lời ru ngọt ngào từ những làn điệu dân ca …
Nhiều khi tôi tự hỏi: Ai đã dạy bà, dạy mẹ những câu hát ru hay đến thế! Không ai dạy dỗ nó, nó như nguồn tự nhiên và vô hình tiếp nối bao thế hệ, những giai điệu nhẹ nhàng, tình cảm sâu lắng, nuôi dưỡng và nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ qua đáy biển sâu. Từ ngàn đời nay, những hình ảnh thân thuộc của quê hương như bến nước, con đò, đêm trăng sáng, cầu tre rời, cánh cò bay… được ghép lại thành những lời ru ngọt ngào, trìu mến xen lẫn tiếng võng đong đưa. Nó tạo ra một hợp âm phức điệu nhẹ nhàng, nhẹ nhàng nhưng vẫn sâu lắng yêu thương đưa bạn vào giấc ngủ, đưa bạn vào giấc ngủ.
Những bài hát ru luôn thân thiện và tình cảm. Nghe lời ru, trẻ cảm nhận được tình yêu thương, chăm sóc của bà, của mẹ như một niềm an ủi, tình cảm. Đó giống như những bước đệm để tạo đà. Nó giống như sự truyền đi năng lượng sống tích cực, lạc quan đáng tin cậy. Lời ru như những tri thức thô sơ giàu hình ảnh cụ thể, chân thực, lấp lánh và tỏa sáng những sợi tơ vàng tạo nên bức gấm rực rỡ đầy màu sắc, góp phần hình thành nhân cách tâm hồn trẻ thơ.
Qua tiếng võng đung đưa êm đềm và những lời ru dịu dàng, lòng nhân ái được hình thành, trẻ biết yêu thương ông bà, cha mẹ, anh chị em, họ hàng trong nhà và rộng hơn là toàn xã. toàn bộ thiên nhiên xung quanh bạn.
Đó là cái đẹp, cái tốt ban đầu. Cũng có khi lời ru như nốt trầm trầm bổng như tiếng võng ru. Hãy ru con để nói thay lòng mình, ru con để tĩnh tâm, ru con để cân bằng lại nhiều chênh vênh trong cuộc sống:
“Gió thu mẹ ru con ngủ
Năm canh dài, mẹ thức cả năm canh “
cỏ khô
“Con cò bơi bên sông
Gánh gạo mang tiếng khóc của chồng ”.
Lời ru đôi khi thắt lại giữa chừng nhưng không bao giờ than thở, không bao giờ trách móc, không bao giờ trách móc mà cứ lan tỏa, mở ra nhiều hy vọng, mở ra nhiều ước nguyện. Đó là sự công nhận với lòng khiêm tốn, sự tha thứ, lòng trắc ẩn, ngay cả khi:
“Gió đưa bắp cải bay về trời
Rau răm ở lại chịu bao lời cay đắng ”.
Có thể trẻ chưa hiểu hết ý nghĩa sâu xa của lời ru, nhưng qua nhịp ru, nhịp ru qua đôi bàn tay khi nhanh, lúc chậm, qua cơ thể và ánh mắt của mẹ, qua sự đồng cảm, linh cảm giữa những người con. Bằng huyết thống, những đứa trẻ đã phần nào tiếp nhận và đồng cảm với những giai điệu, âm thanh của hơi thở cuộc sống, cuộc đời đưa chúng vào cõi mộng mơ như phù sa sông bồi đắp những vụ lúa.
Làn điệu “ooh… ” như một “tấm vé khứ hồi” trên chuyến tàu đưa ta trở về tuổi thơ trong câu hát ru da diết biết bao ân tình:
“Em bé là ngày mấy
Bây giờ tôi đã trưởng thành như thế này
Cơm cha, áo mẹ, thư thầy
Nghĩ sao cho lãng phí những tháng ngày mơ mộng “
Những câu hát ru đậm đà bản sắc quê hương luôn bắt đầu bằng những câu:
“Uh oh… oh… trâu, tôi nói con trâu này
Trâu ra đồng, trâu cày cùng ta.
Trau dồi vốn nông nghiệp
Tôi đây, trâu, ai chăm của công?”.
Có thể coi tiếng ru con say đắm lòng người là quốc hồn, quốc túy của người Việt Nam. Mỗi vùng đất có những câu hát ru khác nhau nhưng điểm chung là nhịp điệu êm dịu, du dương, tha thiết, nhẹ nhàng. Lời ca mênh mang giàu hình ảnh so sánh, trực giác miêu tả một thế giới, đồng cảm với một thế giới nhỏ bé vô cùng – thế giới của những đứa trẻ và những người mẹ.
Có lần tôi làm thơ về việc mẹ mang thai, tôi nghĩ nếu tính theo thời gian vật lý chính xác nhưng lại rất hợp lý về thời gian sinh lý:
“Cái đêm mà mẹ tôi có thai với tôi
Đêm mồng chín tháng mười
Mười ngày dài hơn chín tháng
Đêm vượt cạn quấn tôi trong tã
Xé từ những mảnh buồn trong màu nâu chậm”.
Mẹ đã cưu mang tôi – đứa con của biển cả trên con thuyền sóng đưa nôi. Con sóng đầu đời ấy và vị mặn của mồ hôi biển đã thấm đẫm vào tôi thành giai điệu và nhịp điệu cho thơ tôi sau này vì ngày ấy.:
“Nhau của tôi không theo kịp góc vườn
Mẹ ném cả đầm lầy xuống biển
Mái chèo bắt đầu lật tiếng “Ầm …”.
Theo các nhà nghiên cứu văn học dân gian, trong số các loại hình, hát ru ra đời sớm nhất. Hát ru là một loại hình dân ca mang bản sắc văn hóa lâu đời của dân tộc Việt Nam, với những ca từ giản dị trong cuộc sống đời thường được truyền miệng qua nhiều thế hệ. Lời ru Bắc Bộ nhẹ nhàng, âu yếm tinh tế, sẻ chia như lời tâm tình sâu nặng của con người: “A a a a .. ôi con mau ngủ đi / Cha đi chưa về ”. Và người miền Trung bắt đầu: “ooh … ”thật đau đớn ẩn chứa trong đó là niềm khát khao mở ra bao la:
“Đường về xứ Nghệ quanh đây
Màu xanh lá cây không đặc biệt Đồ họa đẹp như tranh vẽ”.
Lời ru của Nam Bộ thường bắt đầu bằng “Ví dầu .. “nghe ngọt ngào lạ thường:”Cho dầu cá lóc nấu canh / Bỏ tiêu cho ngọt, bỏ hành cho thơm “, toát lên vẻ man mác, tha thiết dung dị của trữ tình đờn ca tài tử vùng đồng bằng sông Cửu Long. Những người mẹ trên núi cõng con trên đôi vai thõng thướt: “Mặt trời của mẹ bạn nằm trên lưng mẹ ” (Nguyễn Khoa Điềm) và lưng mẹ nhấp nhô theo triền đồi là chiếc võng đầu tiên đưa con vào đời. Hát ru còn mang tên làng, xã, phong tục tập quán, tín ngưỡng của người Việt, chứa đựng những bài học từ tiền nhân.
Nhiều lần về thăm quê Bác ở làng Sen (Kim Liên, Nam Đàn), tôi thường đứng lặng người rất lâu bên chiếc võng đung đưa của mẹ Hoàng Thị Loan, người đã từng ru Bác bằng những câu hát dân ca. Cạnh đó là một khung cửi đã được mài nhẵn theo thời gian mà một kiến trúc sư tài ba sau này đã thiết kế ra mộ mẹ Bác Hồ cách điệu thành khung cửi.
Có lẽ tiếng ru của mẹ ngày ấy đã dạy cho Bác những bài học đầu tiên về tình yêu đất nước, là con Lạc cháu Rồng cháu Tiên. Ca dao sông Lam bắt đầu bằng lời ru của mẹ bên võng đay quen thuộc và thấm vào anh cội nguồn văn hóa dân gian, tinh hoa dân tộc để đến với văn hóa bác học, văn hóa nhân loại. Sau hàng chục năm bôn ba nước ngoài trở về quê hương thân yêu, Bác vẫn không quên được lời ru, câu nói “ví dặm” hát phường vải của quê hương. Bác sửa từ “quốc gia“thành lời “Nũng nịu””Của một nghệ sĩ khi đoàn dân ca Nghệ Tĩnh vào Phủ Chủ tịch hát cho người nghe câu:
“Ôi trời! Ai biết rằng nước sông Lam trong và đục?
Biết rằng sống một cuộc sống răng là xấu hổ và danh dự
Thuyền tôi ngược thác, xuống ghềnh
Nước non nghĩa tình ai”.
Trong những ngày mùa thu lịch sử cách mạng này, chúng ta càng biết ơn Người – vị lãnh tụ thiên tài, danh nhân văn hóa thế giới.Thương Bác, lòng ta thêm trong sáng ” (Tố Hữu). Trong sáng như cội nguồn của những câu ca dao, dân ca, lời ru cất lên từ “Âu thuyền cánh võng”…
Hà Tĩnh, tháng 9 năm 2022