Nhân kỷ niệm 60 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam – Lào (5/9/1962 – 5/9/2022), Đài Truyền hình Quốc hội Việt Nam mời quý khán giả đón nghe câu chuyện của Kỹ sư Xinava Suphanuvong. – Con trai út của Hoàng thân Suphanuvong nói với nhà văn Trần Công Tấn.
Đó là tình yêu của cha đối với mẹ, của gia đình đối với Bác Hồ và quê hương Việt Nam kính yêu.
Năm 1920, Hoàng gia Lào cử bố tôi sang học tại Trường Albert Sarraut, Hà Nội. Hơn mười năm sau, 1931, cha tôi sang Pháp du học, nhưng lòng vẫn nhớ Hà Nội, nhớ những người bạn Việt Nam. Dường như đó là số mệnh trời cho bố tôi gắn bó với Việt Nam trong tương lai.
Thật vậy, vào đầu tháng 6 năm 1937, nhận bằng tốt nghiệp đại học ở Pháp, cha tôi được điều về công tác tại Nha Công chính Trung ương, đóng tại thành phố Nha Trang.
Ngày 13/7/1937 – ngày sinh chính xác của bố tôi, ông theo tàu hỏa từ Sài Gòn ra Nha Trang. Bước ra khỏi sân ga, tờ mờ sáng, người đàn ông xách vali ngơ ngác tìm chỗ trọ. Có hai khách sạn giống hệt nhau. Một chiếc có một tấm biển ghi “Bon Air”, và một cái còn lại là “Terminus”. Bố tôi đắn đo, không biết nên vào khách sạn nào thuê, ổn định chỗ ăn, ở để kiếm việc làm. Mọi người đi bộ vào khách sạn “Bon Air”. Và chính nơi đây, bố tôi đã gặp chị Nguyễn Thị Kỳ Nam, học sinh trường Đồng Khánh, Huế, đang đi nghỉ cùng bố mẹ là chủ khách sạn.
Bảy tháng sau, cô nữ sinh Kỳ Nam xinh đẹp đã trở thành mẹ tôi. Cuộc đời của một kỹ sư đã đưa cha mẹ tôi đi xây cầu đường khắp Đông Dương. Nhiều công trình mà cha tôi đã xây dựng ở Việt Nam như đập thủy lợi Đô Lương, Bái Thượng, Trị Nội … và những cây cầu bắc qua nhiều con sông như sông Cả, sông Loan … Khi cha mẹ tôi còn sống ở Vinh để bắc cầu Yên Xuân, Cách mạng tháng Tám bùng nổ. Nhờ ảnh hưởng thắng lợi của Việt Nam, nhân dân Lào đã vùng lên đánh Pháp, Nhật và giành chính quyền. Anh trai của cha tôi, Hoàng thân Fessarat, đã kêu gọi ông trở lại Lào để tham gia Chính phủ Cách mạng. Giữa lúc đó, đầu tháng 9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh cử đồng chí Lê Văn Hiến đón cha tôi ra Hà Nội gặp cụ để bàn tình hình trong vùng.
Trong suốt mấy chục năm kháng chiến gian khổ, hình ảnh Bác Hồ luôn hiện hữu trong gia đình tôi. Cha tôi luôn lấy tấm gương, đạo đức tốt của Bác Hồ để nhắc nhở anh chị em chúng tôi noi theo, phấn đấu trong học tập, trong công tác, trong mọi việc để phục vụ nhân dân. Tình cảm của cha tôi đối với Bác không chỉ là tình đồng chí, tình đồng chí chiến đấu mà còn là tình thân thiết, thiêng liêng. Trong ngăn bàn của bố tôi là những phong bì đựng ảnh. Ảnh chụp chung với mẹ, mặt ngoài phong bì: “Hai chúng ta”. Chụp ảnh với Bác, bố tôi nói: “Với Pà Thẻn”.
Có một người lính tình nguyện trong Quân đội Việt Nam đã cùng bố tôi vào mặt trận Thác Khec. Khi biết bệnh nhân nặng, anh vào bệnh viện thăm khám. Thấy bố gầy gò, yếu ớt, anh cầm tay bố khóc. Bố tôi ôm chầm lấy anh và an ủi: “Con đừng khóc, bố còn sống mà!”. Rồi ông kể tiếp: “Đời thứ ba chỉ khóc hai lần. Lần mất Quang và khi nghe tin Bác mất!” (Tên tiếng Lào của Quang là Arinha Suphanuvong – con trai cả của Hoàng thân Xuphanuvong – Quang là tên Việt Nam do Bác Hồ đặt).
Một hôm, bố tôi dậy rất sớm, đánh thức tôi và hỏi: “Con có biết hôm nay là ngày gì không?”. Tôi ngơ ngác thì anh nói: “Hôm nay là ngày 19 tháng 5. Bác đi mua hoa quả tươi về thắp hương tưởng nhớ Bác”.
Mẹ tôi cuối đời đã già yếu, lúc tỉnh, lúc mê, nhưng không hề nhận là Bác Hồ và bố tôi đã qua đời. Mẹ thường hỏi: “Sao mẹ không đưa con ra Hà Nội thăm Bác”.
Tình yêu chung thủy của bố mẹ tôi kéo dài hơn nửa thế kỷ. Và hơn nửa thế kỷ, gia đình tôi đã gắn bó với đất nước Việt Nam. Khi nhớ quê, mẹ thường nghe những bài dân ca Việt Nam rồi lặng lẽ khóc. Chúng tôi vẫn yêu quê cha, gắn bó với quê mẹ. Tình yêu trớ trêu ấy chắc chắn sẽ mãi trân trọng …
Trình diễn :
Kiều Mai Sơn
Hiểu Vy
Diệu Linh