Thổn thức vì nghèo: Kiếm sống dưới hồ

Rate this post

Nổi

Mưa rơi lất phất trên mái lều, ngồi trên chiếc ghế mây, bà Vi Thị Thanh (53 tuổi) nhìn ra lòng hồ thủy điện Bản Vẽ, huyện Tương Dương (Nghệ An). Mưa ở nơi “núi có nước” bao giờ cũng vậy, hoang vắng, buồn bã. Làn da sạm đen và những nếp nhăn trước tuổi vì thời tiết nắng mưa càng khiến người phụ nữ này thêm phần khắc khổ.

Giật mình tỉnh giấc bởi tiếng gọi mua, chị Thanh vội vàng vào bếp làm tô mì gói cho khách. Nói là khách nhưng những người ngồi trong quán nhỏ đa phần là đồng hương của bà chủ. Họ vốn là người làng Kim Đa, sau khi thủy điện Bản Vẽ chặn dòng, họ đã được tái định cư hoặc chuyển lên vùng núi cao hơn. Cái tên Kim Đa quen thuộc ngày nào, giờ chỉ còn lại trong hoài niệm của người Khơ Mú mỗi khi nhớ về quê hương.

Gia đình bà Thanh cũng là một bộ phận không nhỏ trong dòng người rời bỏ nơi “chôn rau cắt rốn”. Bà Thanh cho biết, sau khi nhận đất tái định cư tại xã Thanh Sơn (huyện Thanh Chương), bà cùng chồng con dắt díu nhau về nơi ở mới. Ngôi nhà sàn mang hơi ấm của gia đình ba thế hệ được cưu mang nắng mưa.

Sau đó khoảng 1 năm, vì cuộc sống khó khăn, chị quyết định một mình trở lại lòng hồ để mưu sinh. Dựng một túp lều nhỏ bên sườn núi, chị Thanh bán hàng tạp hóa, hàng ăn cho khách qua đường, thân cò leo lét giữa núi rừng hoang vu.

Năm 2010, 2011, những xóm nhỏ ở bến thượng nguồn được hình thành bởi những hộ dân từ khu tái định cư đến lập nghiệp. Từ đó đến nay, cuộc sống của hàng chục hộ dân nơi đây gắn liền với sông nước, những chiếc thuyền nhỏ, túp lều tranh làm nơi trú ngụ, ngồi đếm con nước đổ về lòng hồ mênh mông.

“Hồi đó tái định cư không có đất sản xuất, người dân chỉ quanh quẩn trong nhà rồi ra đường không biết làm gì. Lũ trẻ đói quá, khóc suốt ngày. Còn về bến thượng nguồn của lòng hồ thủy điện, Bận ra đây buôn bán kiếm lời, ngoài tiền hàng thì còn có tiền gửi về cho chồng con trang trải cuộc sống.

Dù chỉ có một mình, không biết nương tựa vào ai trong những lúc giông bão, nhưng ít nhất bạn không thấy đói. Cũng may, các con đã lớn, biết lên nương trồng ngô, xuống suối bắt cá chứ mẹ không thể ở mãi trong lòng hồ được ”.

Thổn thức xóm nghèo: Kiếm sống giang hồ - 1
Các hộ dân vùng thượng lưu lòng hồ thủy điện Bản Vẽ

Cái quán nhỏ đung đưa theo nhịp sóng, chị Thanh cúi xuống nhặt mớ rau rừng. Chúng tôi hiểu, cô ấy muốn giấu đi sự mệt mỏi của những ngày tháng vật lộn, bồng bềnh như mặt nước trong hồ. Những người có mặt trong quán không ai nói chuyện, chỉ có tiếng mưa rơi, tiếng sóng biển, ánh mắt xa xăm, tiếng sóng lăn tăn trong cơn mưa rừng hiu quạnh… Nhìn thấy khoang thuyền chật kín. nước. Trời mưa, cậu bé Moong Văn Sửu (13 tuổi, bản Cà Moong) chạy ra dùng muôi đánh.

“Gia đình tôi làm nghề đánh cá ở hồ, ngày được 4kg, ngày không có cá, hôm qua giăng lưới cả đêm chỉ được 2 con cá rô phi to bằng bàn tay, bố tôi bảo bán lấy tiền”. tiền để mua. ”Cha tôi thường phàn nàn rằng không thể bắt được cá. Điều này sẽ khiến anh ta chết đói. Sau đó anh ấy nghĩ đến việc gửi tôi đi làm thuê trên thành phố ”, Ox chia sẻ.

Có thuyền bán cá, Moong Văn Sửu chở người dân từ các bản Cà Moong, Sốp Cháo lên bến thượng nguồn mua sắm. Chẳng mua được gì nhiều, ngoài vài ký gạo, một thùng mì gói và một chai nước mắm …

Thổn thức xóm nghèo: Kiếm sống giang hồ - 2
Anh Nguyễn Phúc Sơn vớt cá lồng chết trên lòng hồ thủy điện Khe Bố

Chiếc ca nô chạy bằng máy nổ của gia đình anh Moong Văn Sửu ra khơi sóng gió. Tại khu neo đậu bên cạnh, anh Lương Văn Phòng vừa thức giấc ngủ trưa trên khoang thuyền. Kiếm sống bằng nghề lái đò lòng hồ Thủy điện Bản Vẽ đã 13 năm, anh Phong đã quá quen thuộc với nơi này.

“Trước đây, khách đông lắm, mỗi ngày tôi chạy 4 chuyến ngược xuôi lòng hồ nhưng giờ ít lắm, chỉ còn 2 chuyến nữa. Chật vật, không biết trụ được bao lâu với nghề. Mỗi ngày tôi bỏ ra 500.000 đồng để mua xăng, nhưng sáng nay chỉ có 2 khách xuống bến, chiều không có khách về thì làm sao bù lỗ được ”. Nói rồi, người đàn ông lại nằm xuống chiếc thuyền có mái che bằng thiếc và không muốn nói đến chuyện ngày mai.

Người dân khổ vì … thủy điện

Xuôi về xuôi, chúng tôi dừng chân tại xã Tam Thái (huyện Tương Dương). Đây là một trong những địa phương có số hộ nuôi cá lồng bè trên dòng Lam Giang khá đông. Khi thủy điện Khe Bố chặn dòng, phù sa ven sông bị nhấn chìm, không còn xanh xanh ngô khoai mà thay vào đó là một bến nước mênh mông.

Thủy điện Bản Vẽ – Công trình vĩ đại của những năm 2000 giữa núi rừng hùng vĩ. Để xây dựng nhà máy lớn nhất Bắc Trung Bộ này, 3.022 hộ dân ở 34 bản và 7 xã thuộc hai huyện Tương Dương và Kỳ Sơn đã phải di dời.

Để vươn lên thoát nghèo, người dân linh hoạt tận dụng nguồn nước lòng hồ để nuôi trồng thủy sản. Thấy cá lớn lên, tạo nguồn thu nhập khá, bà con bắt đầu quan tâm phát triển. Niềm vui chẳng tày gang khi họ luôn nơm nớp lo sợ thủy điện xả lũ đột ngột khiến mực nước thay đổi hoặc không đủ sâu khiến cá lồng bị ngạt chết.

Nhớ lại những ngày giữa tháng 5/2022, ông Nguyễn Phúc Sơn vẫn còn tức tưởi khi cá nuôi trong lồng của gia đình ông và 6 hộ dân khác ở bản Lũng chết hàng loạt do nhà máy thủy điện xả nước.

“Khoảng 16h, tôi đi kiểm tra lồng cá thì phát hiện mực nước hồ thủy điện Khe Bố xuống thấp với tốc độ rất nhanh, trơ đáy hồ, cá chết ngạt, chết trắng. Tôi hốt hoảng gọi hơn 20 người trong thôn đến giúp đỡ, di chuyển lồng cá xuống vị trí nước sâu nhưng không kịp, mọi người vội vớt con cá còn sống cho vào bể nước rồi tiếp tục kéo. cái lồng.

Loay hoay cứu cá cả đêm nhưng chỉ cứu được một nửa số cá. Tại sao thủy điện không thông báo cho người dân biết một tiếng trước khi xả? Chúng phóng điện đột ngột, xả xuống đáy. Họ quá vô cảm ”, ông Nguyễn Phúc Sơn nói.

Trước đó, vào mùa mưa lũ năm 2018, nhà máy thủy điện ven sông Lam bất ngờ xả lũ khiến người dân không kịp phản ứng. Trận lũ bất ngờ khiến mố Nam cầu treo Chòm Lôm bị sóng đánh sập, hai bờ bị chia cắt, hàng nghìn người qua sông bị cô lập, hàng trăm học sinh Trường THCS Lạng Khê (Con Cuông) không đi được đến trường…

Written by 

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *