(Xây dựng) – Sài Gòn có gì đâu mà sau những biến cố của cuộc đời, ta thấy mình bỗng trở nên xa cách?
Những ngày lang thang trên phố, những cơn mưa đến rồi đi, những giây phút thảnh thơi bên bạn bè trong quán cà phê nhỏ với tiếng nhạc nhẹ nhàng… tất cả dường như đã xa, dường như chỉ còn lại quá nhiều. quá khứ trong những năm qua.
Tôi đã từng khóc cho Sài Gòn những ngày xa cách, từng chạnh lòng khi bạn bè nói “Sài Gòn mùa này đẹp quá”, vậy mà tôi vẫn chỉ gặp được một Sài Gòn trong vài phút ở sân bay Tân Sơn Nhất – nơi tôi phải. đến để bắt đầu cuộc hành trình của tôi đến những vùng đất xa xôi …
Để rồi hôm nay trở về chốn xưa, ta thấy mình rưng rưng xúc động, mắt chợt nhòe đi trong vòng tay bè bạn, lòng chợt nao nao trong nắng gió Sài Gòn. Vẫn tấp nập, bộn bề với những dòng người mải mê mưu sinh, nhưng dường như sau đại dịch, một điều gì đó lắng dịu hơn, lắng đọng hơn trong cuộc sống thường nhật của người Sài Gòn. Tôi đi chầm chậm trên phố đêm Nguyễn Huệ nhìn những đôi tình nhân tay trong tay, nhìn những em bé đạp xe nhỏ xíu, đôi mắt ánh lên niềm hạnh phúc khi được cùng bố mẹ xuống phố. Những tiếng rao bán hàng, tiếng nhạc xập xình của những gánh hàng rong, những góc tranh được các họa sĩ vẽ và bày bán ngay trên phố đi bộ… âm thanh “rất Sài Gòn” ấy cứ đưa tôi về với hoài niệm xưa, thuở còn son rỗi. Chàng trai mười tám tuổi ngỡ ngàng với một vùng trời tráng lệ, yêu mảnh đất này ngay từ lần gặp đầu tiên…
Sài Gòn hào phóng, Sài Gòn bao dung… Tôi đã nghe nhiều lời ca ngợi về mảnh đất này. Là một người sinh ra từ mảnh đất miền Trung nghèo khó, khí hậu khắc nghiệt quanh năm, vất vả kiếm tiền phụ giúp gia đình từ những ngày còn đi học, tôi càng cảm kích biết bao tấm lòng bao dung, sự sẻ chia của đồng bào miền Nam nơi đây. Hơi ấm tình người từ thùng trà đá miễn phí, từ tủ bánh mì “lấy vừa đủ, để dành cho người sau”, từ sự hướng dẫn tận tình của người đạp xích lô trên phố khi có người hỏi đường… tất cả cứ quay trở lại. với tôi, làm mắt tôi chợt cay, lòng tôi chợt chùng lại những yêu thương quý giá.
Tôi đã từng yêu từ những con hẻm sâu, những ngôi nhà nhô cao, mùa mưa, mùa hè nóng nực vì không có gió lùa vào, ở đây có những người lao động nghèo, phần lớn là dân tứ xứ, từ nhỏ đã bám đầy bụi. sau những ngày rong ruổi khắp phố phường bán vé số, đến những người mẹ tảo tần mưu sinh bằng xe nước mía, gánh hàng rong. Những người bán hàng rong, những người đàn ông kiếm sống qua ngày bằng những công việc nặng nhọc như bốc vác, chạy xe ôm, công nhân xây dựng. Tuy nhiên, nếu chẳng may lạc vào đây, hay hỏng xe, ngã xe, bạn sẽ luôn nhận được sự giúp đỡ tận tình của những con người nghèo khó nhưng vô cùng tốt bụng đó.
Tôi từng mê mẩn mỗi sớm mai thức dậy tiếng chim ríu rít trong những tán cây xanh, Sài Gòn vẫn còn ngái ngủ, không nhiều xe cộ ồn ào, chỉ có những người đi tập thể dục sớm ở công viên, tiếng những câu chuyện trò cũng vậy. dường như hơi e ngại trước sự bình yên trong sương sớm của đất trời.
Tôi đã từng chen chúc trong dòng người hối hả, hòa vào dòng người bất tận trên phố, đưa con đi học, đi chợ, đi hiệu sách, gặp gỡ bạn bè… Tôi như giọt nước tràn ly. trong lũ lụt. Sự xô bồ ấy của cuộc sống đô thị để rồi đôi khi thấy mệt mỏi, thèm một không gian yên tĩnh của miền quê …
Nhưng sau những giây phút mệt mỏi, tôi thấy mình vẫn yêu Sài Gòn, yêu thành phố bận rộn, nhộn nhịp nhưng đầy tình người này. Vậy là sau một tuần làm việc, từ Vũng Tàu, tôi lại lên xe trở về phố thị Sài Gòn, lòng háo hức mong chờ được gặp và cầm trên tay cậu bé có gương mặt “xanh rờn” nói rằng anh yêu Sài Gòn nhiều như vậy. Tôi yêu mẹ của tôi.
Sài Gòn như một thỏi nam châm hút trẻ con, chúng tôi thường nói đùa như vậy vì hầu hết bạn bè ở Vũng Tàu có con vào Sài Gòn học đại học đều chọn ở lại lập nghiệp tại mảnh đất này. Sài Gòn chào đón và hòa nhập vào cuộc sống, học tập và thành đạt của tất cả mọi người, không phân biệt giàu nghèo, họ đến từ đâu …
Tôi chưa bao giờ thấy ai tự hào mình là “người Sài Gòn chính gốc” dù có những gia đình đã sống ở đây bốn năm, mọi sinh hoạt, nề nếp trong gia đình không khác gì những người từng sống ở thành phố cổ. Nhớ lần đầu tiên vào Sài Gòn (1976), tôi rất ngạc nhiên khi thấy lũ trẻ cúi đầu chào người lớn khi đi học về, những bạn trẻ ăn mặc, đầu tóc có vẻ “bụi bặm” lại sẵn sàng. từ bỏ. ghế dành cho người già và phụ nữ trên xe buýt. Khách phương xa đến hỏi đường, người ta sẵn sàng chạy xe trước chỉ dẫn tận tình, sợ bạn lại lầm vào “thiên la địa võng” của một con phố xa lạ…
Người Sài Gòn làm việc thiện hồn nhiên, chất phác như chính bản chất của anh Hai miệt vườn Nam Bộ. Chính tính cách của người Sài Gòn đã khiến nơi đây trở thành điểm hẹn của mọi người từ khắp nơi đổ về thành phố. Không ngạc nhiên khi TP.HCM là địa phương dẫn đầu cả nước về tổng thu ngân sách và công tác từ thiện. Sự bao dung, sẻ chia, đồng cảm… những đặc điểm nổi bật đó của con người vùng đất phương Nam này luôn là niềm tự hào không riêng ai.