Hệ thống rừng ngập mặn, rạn san hô, thảm cỏ biển, đầm phá đều có tính đa dạng sinh học cao.

Rate this post

(TN&MT) – Phát triển kinh tế biển xanh ở nước ta không chỉ là xu thế tất yếu, mà còn xuất phát từ nhu cầu thực tiễn. Bởi lẽ, xu hướng này đảm bảo sinh kế biển bền vững, nâng cao thu nhập cho người dân, khai thác hợp lý tài nguyên, ít tác động đến môi trường, xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng thích ứng với biến đổi khí hậu. sau, thời tiết khắc nghiệt.

Tiềm năng và thách thức

Việt Nam có vị trí địa lý thuận lợi về biển, hơn 3.260km bờ biển trải dài 28 tỉnh, thành phố dọc theo chiều dài đất nước với diện tích tự nhiên 126.747km2, tỷ lệ đất liền với bờ biển của Việt Nam cao. so với thế giới. Việt Nam có lợi thế về giao thông đường biển khi gần với các tuyến hàng hải quốc tế và khu vực. Biển Việt Nam nằm trong khu vực có tốc độ phát triển kinh tế cao, là cầu nối giữa nhiều cường quốc kinh tế, chính trị trên thế giới. Vùng biển Việt Nam có khoảng 35 loại khoáng sản với trữ lượng khai thác từ nhỏ đến lớn khác nhau, thuộc các nhóm: Nhiên liệu, kim loại, vật liệu xây dựng, đá quý, đá bán quý và khoáng sản lỏng. Tài nguyên biển của nước ta có mức độ phong phú cao. Trữ lượng cá ở vùng biển nước ta khoảng 5 triệu tấn / năm. Biển Việt Nam có hệ thống rừng ngập mặn, rạn san hô, thảm cỏ biển, đầm phá có tính đa dạng sinh học cao.

Các tỉnh, thành phố ven biển đóng góp khoảng 47-48% tổng sản phẩm trong nước (GDP) của cả nước, trong đó các ngành kinh tế biển đóng góp khoảng 20-22% GDP. Tại các tỉnh, thành phố ven biển, chỉ số phát triển con người cao hơn mức bình quân chung của cả nước; thu nhập bình quân đầu người cao gấp 1-2 lần trở lên so với thu nhập bình quân chung của cả nước.

nuoi-bien-long-nhua-20220427104812008.jpg

Khai thác tài nguyên từ biển.

Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, bên cạnh những thành tựu đạt được, kinh tế biển nước ta vẫn phải đối mặt với những thách thức lớn về tài nguyên và môi trường biển, biến đổi khí hậu, nước biển dâng và sinh kế. của người.

Hiện nay, nhiều khu kinh tế ven biển chưa tạo được sức lan tỏa lớn do chất lượng các dự án đầu tư còn thấp, vốn đầu tư tập trung vào các ngành tiêu tốn nhiều tài nguyên và năng lượng như hóa dầu, thép, xi măng, nhiệt điện. điện lực…; các dự án đầu tư vào các khu thuộc đa ngành, lĩnh vực, ít cộng sinh công nghiệp … Việc quy hoạch và triển khai còn thiếu thực tế do hầu hết các khu kinh tế ven biển đều dựa vào phát triển. mô hình đa ngành, ít tập trung và mô hình chuyên sâu …

Các khu bảo tồn biển chưa được quản lý hiệu quả, chưa đáp ứng yêu cầu. Cũng chưa ngăn chặn được việc đánh bắt hủy diệt nguồn lợi thủy sản và các hành vi khai thác tài nguyên biển, ven biển và hải đảo không thân thiện với môi trường. Mặc dù các hoạt động kinh tế trên biển rất đa dạng, bao gồm khai thác dầu khí, du lịch, nuôi trồng thủy sản, giao thông vận tải, năng lượng … Tuy nhiên, các hoạt động kinh tế này đều ẩn chứa nguy cơ ô nhiễm môi trường biển. Hệ sinh thái biển đang phải đối mặt với nhiều thách thức: chất thải từ các con sông đổ ra biển, hoạt động phát triển kinh tế – xã hội của các địa phương ven biển và tác động của biến đổi khí hậu.

Trong những năm gần đây, nguồn lợi thủy sản đã suy giảm do sức đánh bắt quá mức. Cơ sở hạ tầng ngành thủy sản chưa đáp ứng yêu cầu, công tác quản lý môi trường vùng nuôi chưa hiệu quả. Tiềm năng phát triển điện gió ngoài khơi của Việt Nam là rất lớn, trong khi công nghệ và hiệu suất điện gió không ngừng được cải tiến, giảm giá thành, tăng khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên, năng lượng gió ngoài khơi đang phải đối mặt với nhiều thách thức: thiếu quy hoạch đồng bộ – mâu thuẫn trong việc sử dụng không gian biển.

Chúng ta chưa phát huy tối đa lợi thế, tiềm năng là cửa ngõ ra thế giới cho các địa phương ven biển, đó là do chúng ta chưa tạo được chuỗi liên kết giữa các địa phương ven biển với các địa phương ven biển, giữa các địa phương ven biển. các ngành kinh tế và cơ sở hạ tầng. Do đó, các cảng biển tầm cỡ quốc tế chưa được phát triển; một số ngành kinh tế mũi nhọn như hàng hải, dầu khí, công nghiệp đóng tàu chưa tận dụng được thời cơ và lợi thế để phát triển.

Kinh tế biển xanh – xu hướng phát triển bền vững

Kinh tế đại dương xanh không chỉ đảm bảo sự phát triển kinh tế mà còn đảm bảo sự phát triển của hệ sinh thái biển thông qua các phương thức như giảm phát thải carbon, tăng trưởng theo chiều sâu, tiết kiệm tài nguyên. Tự nhiên, thân thiện với môi trường. Phát triển kinh tế biển xanh thể hiện rõ vai trò của việc bảo tồn và phát triển bền vững các hệ sinh thái biển hay còn gọi là phát triển theo hướng tiếp cận hệ sinh thái.

Để phát triển dựa vào biển và hưởng lợi từ biển, Việt Nam cần cân đối giữa khai thác, bảo tồn các giá trị mà biển mang lại, đồng thời xử lý, ngăn chặn các vấn đề về an ninh môi trường biển. Đồng thời, ưu tiên mở rộng hệ thống các khu bảo tồn biển và hải đảo để tạo nguồn dự trữ lâu dài; đồng thời thúc đẩy hợp tác quốc tế và khu vực nhằm giải quyết hòa bình các nguy cơ xung đột lợi ích từ biển.

Phát triển kinh tế biển xanh là một lựa chọn đúng đắn để phát triển kinh tế biển hiệu quả và bền vững theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vì vậy, đòi hỏi hoạt động phát triển của các ngành kinh tế biển cần phải chuyển từ kinh tế khai thác và ô nhiễm môi trường sang kinh tế biển xanh, giảm thiểu các nguồn gây ô nhiễm biển ngay từ đất liền. .

Cần sớm quy hoạch không gian biển và xác định rõ các khu chức năng, đặc biệt là các khu bảo tồn biển; tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học và hệ sinh thái biển; lượng hóa các giá trị kinh tế biển làm cơ sở cho việc thực hiện kinh tế biển xanh.

tan-cang.jpg

Phát triển hệ thống cảng biển phải đồng bộ hệ thống dịch vụ logistics sau cảng.

Hoàn thiện thể chế và hành lang pháp lý cho ngành dầu khí, tiếp tục phát triển theo chiều sâu theo chuỗi giá trị, nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua chuyển đổi số và hoàn thiện hệ thống quản trị. Giảm sản lượng khai thác đến mức bền vững tối ưu, phù hợp với trữ lượng tài nguyên. Phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Chuyển từ nuôi trồng, đánh bắt theo phương thức truyền thống sang công nghiệp, ứng dụng công nghệ cao. Thúc đẩy các hoạt động nuôi trồng và khai thác hải sản bền vững, tăng cường bảo vệ và tái tạo nguồn lợi hải sản. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến trong nuôi trồng, khai thác, bảo quản, chế biến hải sản, tạo ra các sản phẩm chủ lực, có chất lượng và giá trị kinh tế cao, đáp ứng nhu cầu của thị trường. trường học. Sớm hoạch định lộ trình phát triển điện gió xa bờ, gắn quy hoạch phát triển điện lực quốc gia với quy hoạch sử dụng không gian biển.

Xây dựng chiến lược mới để phát triển đội tàu bay quốc gia theo hướng trẻ hóa, hiện đại hóa, đảm bảo tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế về khí thải. Phát triển hệ thống cảng biển phải đồng bộ hệ thống dịch vụ logistics sau cảng. Ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp nền tảng, công nghệ nguồn thân thiện với môi trường. Phát triển hợp lý các ngành công nghiệp đóng và sửa chữa tàu biển, lọc hóa dầu, năng lượng, cơ khí chế tạo, công nghiệp chế biến, công nghiệp hỗ trợ.

Để hoàn thành mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, cơ bản đạt được các tiêu chí về phát triển bền vững, trong đó kinh tế biển xanh giữ vai trò chủ đạo; Cần có sự thống nhất về tư tưởng, nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng đặc biệt của biển đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Phát triển bền vững biển Việt Nam phải được coi là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, là quyền và nghĩa vụ của mọi tổ chức, doanh nghiệp, cộng đồng và người dân.

Written by 

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *