Nhặt được miếng mồi có lớp da vàng giòn, đốm lửa, chạm vào răng, ngay sau tiếng giòn tan là vị ngọt thơm lạ miệng, cân đối của thịt, có độ mềm rất vừa phải. miệng… một bữa chuột núi quên sầu trên mây núi Tà Xùa, huyện Bắc Yên, Sơn La.
Tà Xùa có nhiều đặc sản thuần chủng, từ chè cổ thụ, sơn tra (táo), mận… cả hệ thực vật, nhưng chuyển sang đề tài động vật trong thửa đất thì có vẻ khó tìm. Mùa đông Hà Nội rét run cầm cập, Tà Xùa trên cao luôn trừ nhẹ 7-10 độ để dễ so sánh. Trong tiết trời se lạnh của mùa đông, theo tiết trời, Tà Xùa mùa này lúa đã tàn, chè cũng tàn, nương khô, rừng rụng lá, đặc sản ẩn đâu chỉ còn mây. Biển mây, là đúng mùa.
Người đàn ông địa phương chuyên nấu chè đặc sản ở vùng đất ấy thì thào: “Đi Tà Xùa gấp, kiếm món này ngon lắm”, rồi úp úp mở mở, bảo rằng trên đời phải lắm. có duyên mới có cơ hội thưởng. thức dậy, bởi vì không có nhiều điều này. Lòng tôi tưởng đó phải là một cái hào lớn, hóa ra, đó chỉ đơn giản là … một con chuột.
Ở Tà Xùa, mùa lúa bậc thang cũng giống như nhiều vùng Đông – Tây Bắc khác, từ cuối tháng 9 đến tháng 10, chuột sống trên ruộng gọi là chuột ruộng, cũng thuộc hệ mồi bén. Nhưng khi hết lúa, cây cối không còn gì để gặm nhấm, chui vào núi đào hố chờ mùa đông qua đi.
Vào thời điểm đóng băng của những ngày khắc nghiệt nhất, chuột bắt đầu hành trình rời khỏi ổ của chúng để thu thập thức ăn cho mùa đông. Cũng từ thói quen đó, người Mông ở căn cứ Tà Xùa cứ đến mùa chuột chuyển từ vị trí đánh nhau, đi săn đêm thì đi bẫy thú.
Ngoài việc chuột đồng, nếu chuột đồng có mùi lúa, mỡ màng thì khi qua hệ thống chuột núi, mức độ từ ruộng lên núi thực sự khác biệt. Trên đồng ruộng, hệ thống chuột dường như dư thừa nên dáng vẻ rất… tiều tụy. Béo, căng mọng, thơm, da dẻ hồng hào, móng tay môi đỏ. Nhưng qua hệ thống chuột núi, do các nhóm này phải hoạt động nhiều, đào hang vất vả, thiếu thức ăn nên mỗi con đều có thân dài, thân hình mảnh khảnh, đặc biệt là chiếc đuôi dài cong, cộng thêm phần mỡ thừa. đã vào công nên chẳng còn gì, chuột núi trở nên vạm vỡ, cường tráng, dẻo dai, nhất là nghệ thuật giảm béo, chạy như điện.
Những thợ săn chuột thâm niên nói rằng thỉnh thoảng thấy chúng vào ban ngày, dù có tài giỏi đến đâu cũng chỉ biết mỉm cười bỏ qua, nhưng bắt được thì tệ lắm, vì chuột trốn nhanh quá, trừ khi chiêu mộ được một đội. của một số con chó săn. tham lam con mồi.
Trong đời sống của người Mông ở Tà Xùa, món chuột tuy không phổ biến nhưng cũng vì ít sinh sản nhưng đã từng là một nguồn thực phẩm quan trọng. Thời buổi khó khăn trước đây, mùa đông ở xứ này cũng không có nhiều lựa chọn, nhất là về đạm động vật, nên chuột là thức ăn cứu tinh cho người dân. Vì đặc tính khó bắt, khó tìm nên việc ăn chuột cũng phải trải qua nhiều gian khổ, vất vả, từ việc lên núi tìm đường cho chuột chạy, tìm hang chuột, đánh dấu rồi đặt. nó lên vào ban đêm. cơ hội để mời chuột vào bếp.
Thậm chí, từ trước đến nay, trong số những món ngon đãi khách ngày đông, phải kể đến món chuột đồng quen thuộc, thân thiết của người Mông Tà Xùa mới đem ra trưng bày. Mùa A Vừ – tác giả của 24 “bàn thắng” chuột sau một đêm đặt bẫy, hào hứng cho biết: “Chuột núi tuy ít, nhưng rất khôn, không giống chuột đồng. Mũi nó nhạy, mỗi lần bẫy chỉ dùng được một bẫy, sau Cái bẫy phải để khô vài ngày mới bẫy lại, chừng nào có mùi thì cá khác không theo bẫy nữa.
Cùng đi săn chuột với Vừ, Mùa A Shenh cho biết thêm: “Trước đây, không có dụng cụ, anh em phải đặt bẫy (hệ thống bẫy thòng lọng làm từ tre, nứa, cây rừng) mất nhiều thời gian, nhưng hiện nay đã có bẫy kẹp hình bán nguyệt, gọn, nhẹ, mồi bẫy chỉ vài hạt thóc rải dọc đường đi, thời gian chuột kiếm ăn vào ban đêm thường là 2-3 giờ sáng, nên theo đó đặt bẫy quanh khu vực nhiều hang chuột. Chuột có đặc điểm đi theo đường nào bóng và rõ hơn, điều này chứng tỏ chuột đi theo đàn, đi nhiều, đang vào mùa nắng nên đường đi cho chuột dễ tìm, chỉ giăng bẫy và bắt chúng ngay lập tức.
Sau một đêm vất vả trên núi, trong số 30 cái bẫy đặt ra, Sềnh và Vũ đã xử lý được 24 con chuột nhỏ đủ kích cỡ, con lớn nhất chỉ nhỉnh hơn nửa nắm tay, nhưng cảm giác những cú đánh dài khiến mình gầy đi. So với những con chuột đồng, trong số chiến lợi phẩm có một vài “con”, to hơn ngón tay cái một chút. Vũ và Sen cho rằng, hệ thống này là thứ quý giá, vì nó mới lớn, đang tập kiếm thức ăn nên khi nướng lên có thể ăn cả xương, có mùi hôi như lợn sữa.
Cách chế biến chuột núi của người Mông Tà Xùa cũng rất đơn giản: chuột làm lông, thái mỏng bằng rơm rạ, làm sạch lông thừa rồi mổ bụng, bỏ ruột, bôi một chút muối và ớt. , ngâm chua rồi nướng cho đến khi da rộp vàng, cháy gần hết, thịt chuột cứng lại, nhìn có vẻ khô nhưng khi ăn, thịt chuột dai và mỏng, càng nhai càng ngọt, ngon và sắc đến từng chi tiết. của nhai. , tay đang cầm chuột cắn dở, nhưng đột nhiên mắt đã liếc qua cuộn chuột xem còn nhiều hay ít.
Còn đối với những chú chuột núi “con”, quả thực là một ấn tượng không hề nhẹ. Chuột được nướng kỹ, để nguyên xi, Sềnh và Vũ hãnh diện mời khách lạ, bảo cắn xuống, chuột sữa mềm, xương vừa giòn chứ không cứng như chuột bự, nhai rất nhuyễn. Tiếng ho của các loại gia vị của núi rừng, mùi thơm của mắc khén, mắc khén ngọt ngào và vòng da cháy bỏng… tất cả hòa quyện vào nhau, hòa quyện trong không khí núi rừng se lạnh. Vũ và Sềnh vui mừng, tận hưởng thành quả lao động của đêm hôm trước, ánh mắt rưng rưng vì được mọi người cho xuống món chuột núi đặc sản Tà Xùa.
Nâng chén rượu nấu từ vùng Hang Chú, từ từ thưởng thức vị ngây ngất đầy hương vị trong mâm cơm đãi khách của người Tà Xùa, lại thêm một món ngon khó quên, một kỷ niệm nhớ lại nhiều lần. .