Cho cảnh vô tâm – Chùa Bửu Châu

Rate this post

Tôi được một người bạn giới thiệu nên đến đây xem và mong ai đó có thể giúp tôi giải đáp một vấn đề về cách “Đối mặt với những tình huống không có tâm”. Mình đối diện với tâm cảnh thường phát sinh hay thấy điều xấu, việc tốt, việc xấu của người ta, nhưng không thấy lỗi của mình, nên bỗng nhiên bị cảm giác vui, buồn, hờn dỗi dẫn dắt, dẫn đến mệt mỏi. , trở thành một trở ngại. Cảm ơn rất nhiều.

CÂU TRẢ LỜI:Đối với cảnh thiền vô tâmxuất phát từ câu thơ của vua Trần Nhân Tông,mô tả trạng thái tâm trí giải thoát của một người tu luyện. Trạng thái tâm trí này là k kết quả

của một quá trình luyện tập lâu dài. Đối với đối tượng bên ngoài, dù đẹp hay xấu, trái hay phải, thuận hay nghịch, khen hay chê, tâm không giao động, không giao động, tâm như bất động. Vậy làm thế nào để đạt được “đối tượng không tâm”, sáu giác quan không dính mắc vào sáu giác quan như thế nào? Làm sao mắt thấy sắc mà không dính vào hình, tai nghe âm không dính vào âm, mũi ngửi mùi không dính vào khứu giác …? Đây là tâm của người tu và là đối tượng của tám vạn bốn ngàn pháp môn trong đạo Phật.

Có một đàn khỉ, vua khỉ dẫn đàn khỉ nhỏ, không cho đàn khỉ bỏ đoàn đi săn một mình rất nguy hiểm. Nhưng trong đàn có một con khỉ háu ăn, nó tách khỏi đàn để tìm thức ăn riêng. Không may, người thợ săn đã dùng cây nhựa dính thật làm bẫy, bên cạnh cây nhựa là những miếng mồi ngon để dụ khỉ. Vì lòng tham, con khỉ vừa ngoạm mồi nên tay dính nhựa, con rối hay chân cũng dính chặt nên thợ săn bắt được.

Qua câu chuyện này chúng ta thấy rằng, khi mắc bẫy sáu giác quan hay sáu bộ phận của con khỉ, người ta bắt chúng một cách dễ dàng và không ai có thể cứu được chúng. Cũng như vậy, chúng ta nhìn hình thể bằng mắt, trở nên sắc độ, nghe âm thanh thấm đẫm âm thanh, cho đến khi sáu giác quan của chúng ta bị dính vào sáu giác quan và bị nô lệ và thao túng. Vì vậy, chúng ta nên nghe lời Phật dạy rằng khi sáu giác quan tiếp xúc với sáu đối tượng, chúng ta không nên đuổi theo, đừng dính mắc. Theo đuổi là tham lam, dính mắc là tiền nhiễm. Không ham muốn, không nhiễm trước nghĩa là giải thoát.

Theo cách tương tự, chúng ta giống như một đứa trẻ thò tay vào lọ kẹo. Khi trống rỗng, nó thò vào dễ dàng, nhưng vì nó rất thích kẹo, nó cầm nhiều mà không thể lấy ra được … Muốn rút tay ra thì cứ buông kẹo ra. Đức Phật dạy chúng ta đừng dính mắc vào sáu căn, chư Tổ dạy chúng ta phải buông bỏ, không tiếc nuối, không tham lam như trẻ con tham ăn đồ ngọt, không tham lam như con khỉ tham lam hương thơm. .
Bất kể pháp nào, người tu Phật phảigiới tính đầu tiên . Giữ giới cũng là giữ cho sáu căn không bị sáu trần chi phối. Bất kể phương pháp nào, người tu theo đạo Phật cũng bắt đầu bằng việc thực hành tâm tĩnh lặng, xả bỏ thân tâm. Hy sinh là hạn chế tối đa những nhu cầu tiêu dùng hàng ngày không cần thiết, ví dụ như có một đôi dày, không mua một đôi dày thứ hai, có năm chiếc áo để mặc, không mua chiếc áo thứ sáu mặc dù đang giảm giá…. Mục đích là không để cho thân thể mê hoặc ngũ quan. Và thảnh thơi có nghĩa là tự thanh lọc tâm trí, khi tâm trí vừa khởi lên vọng niệm thì lập tức buông bỏ. Đây là đối tượng của các thực hành thiền định. Dù theo phương pháp thiền nào thì hành giả cũng phải thấy rõ thân, tâm, cảnh, cả ba đều không thật, như huyễn. Để làm được như vậy, chúng ta cần phải phá bỏ ba chấp trước: chấp trước vào tâm, chấp trước vào thân và chấp trước vào cảnh. Pháp chấp tâm là gốc, hễ thấy vọng tưởng khởi lên thì biết là giả, tức là đã phá chấp tâm, vọng tưởng giả không có thật thì làm sao thân cảnh được. có thật. Cư sĩ Bàng Long Uẩn trước khi lâm chung đã nói: “Làm ơn, hãy coi những gì tồn tại là sự trống rỗng và đừng coi những gì không có thật. Tất cả thế giới như một cái bóng, như một tiếng vang. “(Tôi cầu xin bạn chỉ coi tất cả những gì đang tồn tại là trống rỗng và hãy cẩn thận coi tất cả những gì không tồn tại là thực. Giá bạn tốt trên thế giới. Tất cả giống như bóng tối và âm vang.

) Kinh Lăng Nghiêm nói: “Luân hồi sanh tử cũng do sáu gốc, giải thoát tự do cũng do sáu gốc”.

Vì vậy, muốn được giải thoát và đạt được Niết bàn thì phải đóng cửa lục căn. Đóng cửa sáu căn tức là không để sáu căn ô nhiễm dính vào sáu trần. Và nếu muốn đóng cánh cửa của sáu giác quan, theo phương pháp thiền, cuộc trò chuyện đầu tiên là phát sinh nghi ngờ, bởi vì nghi ngờ chiếm sáu gốc, khi nghi ngờ khởi lên, mắt vẫn thấy được, nhưng xem như không thấy; Tai nghe vẫn nghe được nhưng nghe như không nghe thấy. Nhìn và nghe mà vẫn không dính, các giác quan khác cũng vậy, ai chê hay khen cũng không dính, ai nói mình ngu cũng không quan tâm, cái gì xấu hay đẹp trước mặt cũng không quan tâm. Chỉ cần có chánh niệm và biết rõ, tức là không có nghi ngờ, thì không thể chiếm được sáu giác quan. Còn đối với pháp môn niệm Phật, dùng niệm đi niệm lại, niệm thầm bốn chữ A Di Đà Phật, lúc đầu chú tâm vào chữ A, sau đó dùng nhãn lực nhìn vào bên trong thân tâm để tìm ra dấu hiệu. . Đâu là sự chuyển động của làn sóng quán niệm cho đến khi mọi tư tưởng vẩn vơ đều quy tụ về một điểm, rồi dần dần nhất tâm biến mất, đưa hành giả vào một thế giới mà tâm trí luôn không suy nghĩ.

Trong Kinh Ka A Hàm có câu chuyện Ngài Phú Lâu Na thỉnh Phật đến một nơi vắng vẻ để tu hành và xin Ngài chỉ dạy chỗ căn cơ để mau chóng đắc Đạo. Phật dạy:
– Muốn đạt đến điểm quan trọng đó không gì khác hơn là
Con mắt nhìn thấy hình thức không bị ràng buộc bởi hình thức, cũng không bị ràng buộc vào hình thức. Hãy lắng nghe âm thanh, đừng để âm thanh thu hút bạn, đừng để bị nhiễm âm thanh. Mũi ngửi mùi, không bị mùi, không bị dính vào mùi. Lưỡi vị giác không bị mùi vị ràng buộc, không bị mùi vị ràng buộc. Tiếp xúc với cơ thể, dù là êm ái, dễ chịu hay khó chịu, không bị ràng buộc, không bị dính mắc vào nó. Tâm duyên với pháp thì không bị pháp lôi cuốn, cũng không dính mắc vào pháp.

Nếu mắt, tai, mũi, lưỡi và thân không dính mắc vào sáu đối tượng, đó là nguyên nhân dẫn đến Niết bàn.

Được nghe lời Phật dạy như vậy, ngài Phú Lâu Na đảnh lễ Đức Thế Tôn và xin tìm một nơi vắng vẻ để tu hành. Đức Phật hỏi anh ta đi đâu, và anh ta nói rằng anh ta định đến một quốc gia ở phương Tây để tu hành.

Phật nói:

– Nghe nói dân vùng đất đó hung dữ lắm, bạn đến đó họ gây khó dễ, làm sao mà trồng trọt được?

Ngài Phú Lâu Na Bạch:

“Thế Tôn ơi, nếu mọi người khó khăn với con, con vẫn can đảm tinh tấn tu hành.

Phật hỏi:

– Nếu họ mắng bạn, bạn nghĩ sao?

“Người được vinh danh thế giới, nếu họ mắng tôi, họ vẫn tốt bụng vì họ đã không đánh tôi.

– Giả sử họ đánh bạn bằng tay chân, bạn nghĩ sao?

“Đức Thế Tôn, nếu họ đánh tôi bằng tay chân, họ vẫn tử tế vì họ đã không đánh tôi bằng dao và gậy.

– Giả sử họ dùng dao, gậy đánh bạn thì bạn nghĩ sao?

“Người được vinh danh thế giới, nếu họ đánh tôi bằng dao và gậy, họ vẫn tử tế vì họ đã không giết tôi.

– Nếu họ giết bạn, bạn nghĩ sao?

“Người được tôn vinh thế giới, thật tốt nếu họ giết tôi, vì họ sẽ sớm giải quyết cơ thể ô uế này cho tôi. Tôi cảm ơn họ nhiều hơn nữa.

Bụt nói:

– Nếu làm được như vậy thì nên đến đó luyện tập.

Ngài Phú Lâu Na với giáo pháp do Đức Phật truyền dạy và ý chí sắt đá đã qua nước đó tu hành, chỉ ba tháng liền Ngài đã chứng quả A la hán. Tóm lại, tất cả các phương pháp của Đức Phật khi chúng ta thực hành bí mật

tất cả đều dẫn đến tình trạng vô tâm:

Mắt thấy màu, tai nghe tiếng, thính không Trơ lòng lắng dịu Nhẹ nhàng ta bước ra khỏi vòng luẩn quẩn.

Written by 

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *