Cần rà soát lại việc quản lý, khai thác tài nguyên phù sa và mặt nước ven sông, ven biển.

Rate this post

Thời gian qua, dưới sự chỉ đạo của UBND TP cũng như sự vào cuộc của các sở, ngành, địa phương liên quan, việc tổ chức di dời, giải tỏa các hoạt động nuôi ngao trái phép đang được triển khai quyết liệt. Nhưng cũng từ vụ việc này, nhiều bất cập đã được phát hiện trong công tác quản lý, khai thác tài nguyên phù sa, mặt nước ven sông, ven biển tồn đọng lâu ngày và để lại nhiều hệ lụy.

Hải Phòng có chiều dài bờ biển khoảng 125km, là nơi có nhiều cửa sông ra biển với mật độ cao nhất trong 28 địa phương ven biển của cả nước. Quỹ đất ngập nước ven biển của thành phố rộng 24,58 nghìn ha, bao gồm đất ngập triều gần 20 nghìn ha, ngoài ra còn có các cồn cát không bị ngập.

Nuôi thả cá lồng bè trên mặt nước quần đảo Cát Bà.

Chưa kể 24 nghìn ha mặt nước cửa sông, kênh, rạch, hồ, vũng, vịnh … (gọi chung là vùng bãi bồi, mặt nước) mang lại lợi thế ưu đãi cho phát triển đa ngành.

Tuy nhiên, lâu nay, việc khai thác phù sa và tài nguyên mặt nước chủ yếu được thực hiện dưới góc độ nông nghiệp, trong đó có ngư nghiệp. Cụ thể, ở các vùng bãi bồi ven sông, từ lâu đã hình thành các vùng chuyên canh cói, trồng lúa một vụ, nuôi trồng thủy sản.

Từ thực trạng này cho thấy, cùng một tính chất nhưng việc phân loại, quản lý ở mỗi địa phương cũng khác nhau, có nơi xác định đây là diện tích đất nông nghiệp, giao cho nông dân khai thác, nhưng cũng có nơi. gọi là đất bãi bồi, bán hoang hóa, bán hóa chất, được quản lý, khai thác theo hình thức khoán.

Một vùng nuôi ngao ven biển trước thời điểm di dời, giải tỏa.

Điều này đã dẫn đến cách thức áp dụng các quy định của pháp luật khác nhau và tạo ra sự thiếu đồng bộ về hiệu quả khai thác. Ví dụ từ một vụ án khá nhạy cảm diễn ra cách đây đúng 10 năm tại xã Vinh Quang (Tiên Lãng), cho thấy diện tích hơn 40 ha khi giao chỉ thu về cho ngân sách hơn 10 triệu đồng / năm. .

Trong khi cùng thời điểm, với cùng diện tích, tài sản đất tương tự trên địa bàn huyện Kiến Thụy, được khai thác theo hình thức nhận thầu, ngân sách địa phương thu về hàng trăm triệu đồng / năm. Có lẽ do cách làm chưa thống nhất nên khi nhà nước cần thu hồi quỹ đất để phục vụ các mục tiêu phát triển khác nên việc giải phóng mặt bằng gặp rất nhiều vướng mắc.

Có thể nói, chỉ nhìn vào hoạt động khai thác nguồn lợi thủy sản, các vùng bãi bồi, mặt nước nói chung đã mang lại lợi nhuận khá lớn và ngày càng trở nên phổ biến. Tại Hải Phòng, diện tích mặt nước nhiễm mặn chủ yếu để nuôi cá lồng bè, trồng rau câu như ở huyện Cát Hải, khoanh nuôi tôm cua ở quận Hải An và Dương Kinh.

Và khoảng 20 năm trở lại đây, nghề nuôi ngao ven biển phát triển thêm. Còn đối với các vùng bãi bồi, mặt nước lợ sâu vào nội địa, hầu hết đều nhận khoán khai thác cá nước lợ tự nhiên, thời hạn 5 năm / lần. Một số khu vực khác được quy hoạch để cải thiện nuôi trồng thủy sản nước ngọt.

Thu hoạch ngao thương phẩm.

Do lợi ích chênh lệch, nhiều hộ dân được giao đất trồng lúa do kém hiệu quả đã được chuyển nhượng diện tích tập trung cho người nhận thầu, nhưng giao dịch cũng mang tính tự phát, mất kiểm soát. .

Chưa kể trong quá trình khai thác, có nhiều biểu hiện tiêu cực trong quá trình mở thầu hoặc lập dự án trá hình cho dễ nhìn.phá luậtkéo dài thời gian sử dụng đất, mặt nước. Điều này dẫn đến không chỉ tạo ra sự bất bình đẳng trong khai thác, sử dụng mà còn làm thất thoát một lượng ngân sách đáng kể.

Trong những năm gần đây, sự phát triển mạnh mẽ của các dự án cũng như nhiều ngành kinh tế khác đã bộc lộ một lợi ích khác từ vùng bãi bồi ven biển và ven biển Hải Phòng, đó là tài nguyên thiên nhiên. cát. Như đã nói ở trên, Hải Phòng là nơi có gần chục cửa sông lớn đổ ra biển. Hàng năm, một lượng cát khổng lồ theo lũ lụt và ngưng tụ lại thành các mỏ lớn.

Từ lâu, nạn khai thác cát vẫn diễn ra, nhưng cũng có một phần không nhỏ do hoạt động tự phát của các chủ tàu, gây nhiều bức xúc liên quan đến công tác quản lý cũng như an ninh trật tự. Do việc khai thác cát không theo quy hoạch đã tạo ra mâu thuẫn với các hoạt động khai thác khác.

Trở lại những vấn đề liên quan đến nghề nuôi ngao, theo một số thống kê, thành phố Hải Phòng có hơn 3.000 hộ dân sống bằng nghề thả rông và đánh bắt ven bờ. Riêng vùng đất ngập nước ven biển, phân bố từ huyện Cát Hải đến huyện Tiên Lãng, liên quan đến 6 huyện, đã được khai thác để nuôi ngao trong khoảng 20 năm.

Có thể nói, nghề nuôi ngao phát triển rất mạnh, ở một số vùng như huyện Kiến Thụy đã thành lập được cả Hiệp hội nuôi ngao cho thấy quy mô của loại hình này trên địa bàn TP.

Tuy nhiên, như đã nói, nghề nuôi ngao đa phần là hoạt động tự phát, nhưng do trình độ quản lý, sự buông lỏng trách nhiệm hoặc nhiều lý do khác mà chính quyền địa phương để mặc cho quy trình này trôi qua. pháp luật.

Thậm chí còn có tâm lý, khi ở nhiều địa phương, chính quyền địa phương dù chưa đủ thẩm quyền nhưng vẫn ban hành các văn bản như giao diện khu vực, thí điểm, hỗ trợ kỹ thuật … khiến nhiều người lầm tưởng đó là việc khoanh vùng, lập bãi nuôi ngao. căn cứ pháp lý, phù hợp với chủ sở hữu và chính sách?

Khai thác cát ven biển Hải Phòng.

Chính vì sự thiếu thống nhất, buông lỏng trong công tác quản lý nên nhiều năm qua, khu vực này xuất hiện nhiều bất ổn về an ninh, an toàn, các cơ quan chức năng đã xử lý nhiều vụ việc liên quan đến tranh chấp bãi chăn nuôi cũng như khai thác, tiêu thụ sản phẩm và các các hệ quả liên quan.

Nhưng điều đáng nói, cũng chính từ sự quản lý thiếu nhất quán, có biểu hiện tiêu cực, thiếu trách nhiệm nên dù nguồn lợi khai thác từ phù sa, sông, mặt nước ven biển trên địa bàn rất lớn nhưng đóng góp cho ngân sách là rất lớn. không cân xứng. Mặt khác, việc khai thác tài nguyên này cũng chủ yếu tập trung vào một bộ phận người dân chứ không phải là quần chúng Nhân dân hay nói cách khác là nhóm lợi ích cục bộ.

Bất cập hơn nữa, khi thành phố cần triển khai các quy hoạch, công trình, dự án phát triển liên quan thì quá trình thực hiện rất phức tạp, tốn nhiều nguồn lực, thậm chí tốn kém gấp nhiều lần những gì thành phố thu được. quy trình khai thác nêu trên. Rõ ràng, đây là điều hết sức bất cập, việc di dời, giải tỏa vùng nuôi ngao đang diễn ra chỉ là một ví dụ.

Tôi nghĩ, trên lộ trình mới, nhiều phương hướng phát triển kinh tế – xã hội được đặt ra, cần lựa chọn hình thức nào ưu việt hơn, thay thế cho phương thức khai thác, sản xuất cũng hợp lý. khóa học.

Nhưng quan trọng, công tác quản lý khai thác phải được đặt lên hàng đầu để đạt hiệu quả, trên nguyên tắc vì lợi ích chung của cả cộng đồng. Và điều cần thiết lúc này, có lẽ là cần rà soát tổng thể công tác quản lý, khai thác các bãi bồi ven sông, ven biển trên địa bàn TP.

Vừa mở đường cho sự phát triển, nhưng cần hơn nữa phải siết chặt kỷ cương, phép nước để đưa các mục tiêu phát triển đi đúng quỹ đạo, hướng tới sự bền vững.

Lê Minh Thắng