Nếu lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam là lịch sử đấu tranh lâu dài, gian khổ để giành lại quyền tự quyết cho dân tộc, tự do cho Nhân dân; thì cuộc khởi nghĩa Lam Sơn năm 1418 xứng đáng trở thành biểu tượng của lòng yêu nước, ý chí tự lực tự cường, khí phách anh hùng và khát vọng trường tồn của dân tộc ta trong lịch sử lâu đời. Để rồi sau hơn 6 thế kỷ, chí khí Lam Sơn sẽ luôn tỏa sáng với khí phách dân tộc trên con đường đấu tranh khẳng định uy thế và vị thế của đất nước.
Âm vang của hồn sông
Quốc gia Đại Việt đầu thế kỷ XV chứng kiến nhiều biến động lớn. Nhà Hồ chưa thể đứng vững thì bị giặc Minh đánh bại, khiến đất nước quằn quại dưới gót giày xâm lược và thống trị tàn bạo. Hoàn cảnh đó đã đặt ra vấn đề tồn vong của quốc gia, dân tộc đối với các lực lượng yêu nước lúc bấy giờ. Và rồi, chính câu hỏi về sự tồn vong của dân tộc và khát vọng giành lại những giá trị nhân văn cho dân tộc Đại Việt đã trở thành động lực để người anh hùng Lam Sơn bước lên vũ đài lịch sử. Sau chuỗi ngày nếm mật nằm gai, chuẩn bị lực lượng, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do vua Lê Lợi ở Bình Định khởi xướng và lãnh đạo đã nổ ra vào mùa xuân năm Mậu Tuất 1418 tại núi Lam Sơn. Mặc dù lúc đầu, đó là một cuộc chiến không cân sức khi chúng ta buộc phải “lấy yếu làm mạnh”, “lấy địch ít”. Nhưng với khát vọng “Ngàn năm rửa sạch nhục nhã / Đời đời hòa bình vững chắc”, với quyết tâm sắt đá “Thề non sông gấm vóc” và bằng nghị lực phi thường, sự chiến đấu ngoan cường của quân Lam Sơn chính nghĩa và của chúng ta. nhân dân vang dội với những chiến công hiển hách trên các mặt trận Bồ Đằng, Chi Lăng, Tốt Động, Chúc Động, Trà Lân … để kết thúc tại Đông Đô – thành lũy cuối cùng cố thủ, kết liễu bè lũ ngoại xâm: “Qua muôn năm thắng lợi. , quân Tây Kinh của ta thu phục / Tuyển quân tấn công, đất Đông Đô xưa thu phục ”!
Bộ sách sử đồ sộ “Đại Việt sử ký toàn thư” đã ghi chép khá kỹ lưỡng trận đánh sinh tử đó; Đồng thời, các sử gia cũng ca ngợi chiến công của Bình Định Vương, các tướng lĩnh và quân dân ta: “Mậu Thân, Thuận Thiên năm thứ 1 (1428). Mùa xuân, tháng giêng, giặc Minh về nước, và vua thống nhất thiên hạ, lấy năm đó làm năm thái bình Nhận xét: Trời đất đã định, Nam Bắc phân tranh, phương Bắc tuy mạnh nhưng không thể đàn áp được phương Nam, giống như nhà Lê, nhà Lý, nhà Trần nên cuối thời Tam Quốc, phương Nam suy yếu, chỉ còn nội loạn, đến nhà Hồ Lê thì bạo tàn quá độ, thân bại danh liệt. giặc phương Bắc tàn bạo, nhân dân phương Nam khốn khổ, may thay lòng trời đã nghĩ, sinh ra trời sinh, chiến đấu với chính nghĩa, san bằng nhân loại, sông núi mới đổi mới, trời trăng lại trong lành, nhân dân hòa bình, nhà nước được cai trị. Đó là vì Vua tôi là cùng một tâm trí, trên và dưới cùng một trái tim. Ồ! Tất cả các rối loạn phải được điều trị, như bây giờ là đủ để xem. “
Khởi nghĩa Lam Sơn được các nhà nghiên cứu đánh giá là một trong những cuộc chiến tranh giải phóng có quy mô lớn và vô cùng gian khổ trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta. Đi tìm nguyên nhân làm nên thắng lợi vĩ đại đó, GS.TS.NGND Nguyễn Quang Ngọc cho rằng: “Lòng dân quyết định tất cả sự thành bại của các cuộc kháng chiến. Mấu chốt nằm ở chỗ các chính sách, giải pháp của người đứng đầu có mang lại lợi ích thiết thực và tạo được niềm tin thực sự lâu dài trong nhân dân hay không. Bài học “lấy dân làm gốc” vì thế có giá trị trường tồn trong mọi thời đại, trong suốt chiều dài lịch sử của đất nước, cho đến ngày nay và mai sau. PGS. PGS.TS Lâm Bá Nam nhấn mạnh: “Khởi nghĩa Lam Sơn là cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc mang tính Nhân dân rộng rãi, là dấu mốc quan trọng, đồng thời là đỉnh cao của tinh thần đoàn kết dân tộc. . Trong suốt cuộc trường kỳ kháng chiến kéo dài hơn nửa thời gian, nghĩa quân hoạt động ở vùng rừng núi Thanh Hóa với muôn vàn khó khăn, hiểm nguy. Đôi khi nó dường như không thể vượt qua. Nhờ sự đùm bọc, nuôi dưỡng, đùm bọc của nhân dân các dân tộc Kinh, Mường, Thái, Thổ … trên vùng núi Thanh Hóa, nghĩa quân ngày càng lớn mạnh. cũng (đông người qua lại), rượu đầy (Nguyễn Trãi ở núi Chí Linh Phù). Sự đóng góp của các dân tộc Mường, Thái trong những năm đầu kháng chiến là một trong những nhân tố quan trọng góp phần làm nên thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc ở thế kỷ XV. Đồng thời, sự đóng góp đó là một trong những minh chứng sinh động khẳng định sự đoàn kết, thống nhất vững chắc của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Cùng với việc huy động sức mạnh của nhân dân là nguyên nhân làm nên thắng lợi, theo PGS.TS. phương pháp dùng yếu đánh mạnh, lấy ít địch nhiều để định hướng chiến thuật. Khởi nghĩa Lam Sơn cũng đặt ra vấn đề đoàn kết yêu nước thương dân, nhằm xác định lợi ích dân tộc, lợi ích đất nước và khai thác sức mạnh to lớn của Nhân dân trong chiến tranh. chiến tranh giải phóng. Khởi nghĩa Lam Sơn cũng nêu lên một đường lối thiết tha đòi hòa bình, đồng thời với lòng căm thù chiến tranh và giành thắng lợi trong chiến tranh với sự thuận lợi tối đa và tổn thất tối thiểu. Không có cuộc khởi nghĩa nào trong lịch sử nước ta, trước Cách mạng Tháng Tám, nêu lên những vấn đề có ý nghĩa lý luận như vậy. Lê Lợi là nhà lãnh đạo duy nhất có ý thức từ dòng tư tưởng được đúc kết thành học thuyết chân chính và cũng kiên trì học thuyết của mình.
Bảo tồn vĩnh cửu
“Gốc tại trời, gốc ở tổ”. Hướng về cội nguồn không chỉ là đạo lý dân tộc, mà còn là thuận theo ý trời, hợp lòng người. Vì vậy, sau khi đăng quang, vua Lê Thái Tổ đã đổi tên đất Lam Sơn thành Lam Kinh (hay Tây Kinh) để phân biệt với Đông Kinh (Thăng Long). Đây không chỉ đơn giản là việc đổi tên mà nó mang ý nghĩa tôn kính của nhà vua đối với quê cha đất tổ; đồng thời khẳng định vai trò, vị thế của vùng “đất lập ấp” – nơi phát tích của vị hoàng đế thời Hậu Lê. Từ đây, Lam Kinh trở thành “kinh đô lưu niệm” – nơi an nghỉ vĩnh hằng của các vị vua và hoàng hậu thời Lê sơ. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hảo: “Đại Việt có Đông Đô ở đồng bằng sông Hồng, có Lam Kinh ở đồng bằng sông Mã – một quốc gia giàu mạnh, để láng giềng nhìn vào. chiến thắng là nguyên nhân sâu xa để nhà Lê sơ xây dựng Lam Sơn trở thành Lam Kinh! ”.
Điều đó cũng chứng tỏ việc xây dựng Lam Kinh có nhiều ý nghĩa sâu sắc hơn? Lý giải điều này, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hảo cho biết: Sau 20 năm bị nhà Minh đô hộ, những giá trị văn hóa do các triều đại trước gây dựng đã bị xâm hại nghiêm trọng. Vì vậy, việc xây dựng Lam Kinh trở thành lăng thờ tổ tiên và một số vua Lê với hàm ý ngầm: Nhà Minh muốn diệt Đại Việt, chúng đã phá mộ tổ tiên của Lê Lợi, nay nước này còn, Lam Sơn đã thành Lam Kinh. trong một dáng vẻ trang trọng và uy nghi. Đặc biệt, việc xây dựng Lam Kinh còn nhằm tạo uy thế cho triều đình nhà Lê, cả đối ngoại và đối nội. Đồng thời là bước hiện thực hóa tư tưởng, khát vọng xây dựng nhà nước Lê sơ hùng mạnh của Đức Thái Tổ Cao Hoàng đế Lê Lợi.
Mang nhiều tầng ý nghĩa sâu sắc, Lam Kinh được xây dựng dựa trên thế sông núi tự nhiên và những quan niệm phong thủy khắt khe. Theo nhà sử học Phan Huy Chú thì: “Điện Lam Kinh ở sau núi, nhìn ra sông trước mặt, núi xanh tứ phía, rừng cây um tùm. Vĩnh Lăng của Lê Thái tổ, Thiếu Lăng của Lê Thái Tông và lăng các vua Lê là Tất cả đều có, lăng nào cũng có bia, sau này lấy hồ Tây làm đầu não, như hồ Kim Ngưu, hồ rất rộng, nước từ tứ phía đổ vào, có con sông bắt nguồn từ hồ đó chảy quanh trong. trước mặt là lòng sông có những phiến đá nhỏ, tròn nhẵn nhìn rất thích mắt mà không ai dám trộm, còn có một con lạch nhỏ chảy từ bên tay phải ra phía trước chùa, ôm quanh như một hành cung Bên con lạch có cây cầu Bạch Kiều ở giảng đường Vạn Thọ Điện Đông Kinh, đi qua cầu là đến điện, thềm điện rất cao, hai bên rộng thoáng, có chỗ bằng. nước dưới chân cung điện, giống như trước mặt của hoàng p alace. Bên ngoài cổng Nghi Môn có hai con chó đá, theo truyền thống rất linh thiêng. Tòa đại bái gồm ba ngôi nối tiếp nhau, theo kiểu chữ Công, mô phỏng theo kiểu của các ngôi chùa ở Kinh Sư. Đi lên từng bước, rồi từ đó nhìn xuống có thể thấy núi đồi, thung lũng bên trái, bên phải, cái này, cái kia xung quanh, thực sự là nơi tạo dựng cơ nghiệp.
Khởi nguồn là “kinh đô tưởng niệm”, nơi hành đạo của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên thời Lê sơ; Cùng với vai trò lịch sử, cùng nhiều giá trị to lớn về văn hóa – kiến trúc, nghệ thuật, thẩm mỹ, Lam Kinh ngày nay trở thành quần thể di tích có tầm quan trọng đặc biệt và là di sản văn hóa. Đất nước được bảo tồn và gìn giữ nghiêm ngặt. Đồng thời là nơi lòng người hướng về lòng thành kính, ngưỡng mộ và biết ơn các bậc tiền nhân. Chính vì vậy, năm 2012, Lam Kinh đã được Thủ tướng Chính phủ ký quyết định công nhận là di tích quốc gia đặc biệt (tại Quyết định số 1419 / QĐ-TTg ngày 27/9/2012). Sau 10 năm được vinh danh, Lam Kinh đã được Trung ương và tỉnh Thanh Hóa đầu tư trùng tu, tôn tạo, khai thác và phát huy giá trị để phát triển du lịch.
Có thể khẳng định rằng, tư tưởng nhân nghĩa, “Đem chính nghĩa lớn lao khắc phục bạo tàn / Dùng lòng nhân hậu thay bạo tàn” và tư tưởng ôn hòa “Nhân nghĩa để dân yên” chính là sức mạnh nội sinh, là Nguồn năng lượng. đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đến thắng lợi cuối cùng. Đồng thời, chính tư tưởng đó đã tạo nền tảng để xây dựng nên một trong những triều đại thịnh vượng nhất trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam. Tư tưởng ấy bắt nguồn từ truyền thống trọng đạo hiếu hòa, khát vọng hòa bình của dân tộc ta, được ví như tiếng trống đồng vang mãi từ “ngàn đời nay đến muôn đời sau” như một tín hiệu từ tâm khảm. từ trái tim của mỗi người Việt Nam yêu nước. Tiếp đó là kỷ niệm 10 năm Khu di tích lịch sử Lam Kinh được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt, 604 năm khởi nghĩa Lam Sơn, 594 năm ngày vua Lê Thái đăng quang, 589 năm ngày mất của anh hùng dân tộc Lê Lợi. và lễ hội Lam Kinh năm 2022, là một sự kiện có ý nghĩa vô cùng đặc biệt. Đây không chỉ là dịp để hậu thế tri ân, ngưỡng mộ, tôn vinh công lao của Anh hùng dân tộc Lê Lợi và các vị vua Hậu Lê; qua đó nhân lên niềm tự hào về truyền thống lịch sử, văn hóa hào hùng của dân tộc. Đồng thời, khơi dậy và phát huy tinh thần tự lực, tự cường, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh. Để cho tinh thần Lam Sơn sáng mãi khí phách dân tộc!
Theo baothanhhoa.vn