Đây là cơ sở để nhân rộng mô hình nhằm phát triển nghề nuôi trồng thủy sản trên cát ổn định, bền vững, nâng cao thu nhập cho người dân vùng nông thôn ven biển.
Ông Phan Văn Phương, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quảng Trị cho biết, toàn tỉnh hiện có gần 500 ha nuôi tôm thẻ chân trắng, tập trung chủ yếu ở các xã ven biển.
Tuy nhiên, những năm gần đây, thu nhập từ nuôi tôm không ổn định và có xu hướng giảm do chất lượng con giống không đạt yêu cầu, môi trường nuôi suy giảm, dịch bệnh liên tục xảy ra gây thiệt hại về kinh tế. mang lại lợi ích kinh tế cho người nông dân, dẫn đến nhiều diện tích bị bỏ hoang.
Để tìm ra đối tượng nuôi mới phù hợp, hiệu quả kinh tế cao, đồng thời tận dụng được nguồn thức ăn sẵn có tại địa phương, sau khi nghiên cứu, Trung tâm Khuyến nông Quảng Trị đã đề xuất giải pháp và triển khai thực hiện. Nuôi thử nghiệm ốc hương trong ao lót bạt trên cát.
Trong đó, Trung tâm Khuyến nông Quảng Trị hỗ trợ 70% chi phí ốc hương giống và thức ăn. Điểm mới của mô hình là ở giai đoạn đầu nuôi, ốc hương được nuôi trong bể tròn.
Sau 3 tháng nuôi trong bể, ốc hương được chuyển sang ao nuôi thương phẩm. Ngoài ra, nước thải từ các ao nuôi ốc hương được đưa về hồ xử lý và dùng để nuôi cá đối mục. Từ đó giúp rút ngắn thời gian nuôi, giảm thiểu rủi ro, giảm nguy cơ ô nhiễm do nước thải.
Trao đổi với chúng tôi, anh Phan Thanh Hoàng, một hộ dân tham gia thực hiện mô hình cho biết, được sự hướng dẫn của Trung tâm Khuyến nông tỉnh Quảng Trị, anh đã xây dựng bể ương với diện tích 300 m2, phía trên được che bằng lưới Orchid, có hệ thống cấp nước liên tục.
Đáy bể phủ cát dày 5 – 10 cm. Ao nuôi thương phẩm giai đoạn 2 có diện tích 800 m2, có hệ thống cấp nước chủ động. Nước thải từ bể ương và ao nuôi thương phẩm được dẫn về ao xử lý có diện tích 2.200 m2. Số lượng ốc giống được nuôi là 600.000 con. Trong 3 tháng đầu nuôi, ốc hương được nuôi trong bể để dễ quản lý.
Khi ốc đạt kích cỡ trung bình 900 con / kg thì tiến hành san lấp ao nuôi thương phẩm đã chuẩn bị sẵn. Thức ăn cho ốc chủ yếu là cá tạp, cua, ghẹ, sau đó đập vỡ vỏ rồi cắt nhỏ phù hợp với kích cỡ của ốc và chỉ cho ăn 1 lần / ngày. Sau khi cho ăn 60 – 70 phút, kiểm tra lượng thức ăn thừa hoặc thiếu để điều chỉnh lần sau cho phù hợp. Vào những ngày thời tiết thay đổi, mưa nhiều, ốc thường giảm ăn nên chủ động giảm lượng thức ăn.
Đồng thời, thường xuyên vệ sinh nền đáy hàng ngày sau mỗi lần cho ăn để tránh thức ăn dư thừa ảnh hưởng đến sức khỏe của ốc; Giữ vệ sinh môi trường vùng nuôi là điều kiện tốt giúp ốc hương mau lớn. Nước thải từ ốc được đưa vào ao xử lý, nơi có 4.500 cá đối được nuôi để sử dụng.
Nhờ tuân thủ nghiêm ngặt quy trình kỹ thuật, môi trường luôn đảm bảo nên ốc hương của mô hình phát triển tốt, không xảy ra dịch bệnh trong thời gian nuôi. Sau 6 tháng nuôi, ốc đạt kích cỡ bình quân 125 con / kg, tỷ lệ sống trên 70%.
Sản lượng thu hoạch dự kiến hơn 3,2 tấn. Với giá bán 170.000 đồng / kg, mô hình cho lãi hơn 160 triệu đồng sau khi trừ chi phí. Bên cạnh đó, cá đối trong ao xử lý nước thải cũng cho thu hoạch hơn 0,8 tấn, đem lại lợi nhuận gần 42 triệu đồng.
Theo anh Hoàng, tuy chi phí đầu tư nuôi ốc hương khá cao nhưng bù lại kỹ thuật nuôi đơn giản, dễ quản lý, chăm sóc, giá trị sản phẩm cao, dễ tiêu thụ. Đặc biệt, trong quá trình nuôi tuyệt đối không sử dụng hóa chất, kháng sinh nên sản phẩm đạt chất lượng cao, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.
Mực nước nuôi ốc hương chỉ từ 30 – 40 cm nên dễ kiểm soát, người nuôi có thể nhìn rõ ốc khỏe hay yếu, ốc ăn mồi hay không để có biện pháp xử lý kịp thời. Thức ăn cho ốc hương chủ yếu là cá tạp tươi sống nên rất phù hợp với các xã ven biển.
Ông Phan Văn Phương nhấn mạnh, ưu điểm của mô hình này là giai đoạn đầu ốc được nuôi trong bể nhỏ nên dễ quản lý, giảm chi phí. Kích thước cá giống lớn khi thả vào ao nuôi thương phẩm giúp rút ngắn thời gian nuôi, hạn chế rủi ro trong quá trình nuôi. \
Ngoài ra, do sử dụng các loại cá tạp, cua, ghẹ nên sau mỗi lần cho ăn, nguồn nước cũ được rút cạn và nước mới được bơm vào, tuy nhiên, thay vì thải ra môi trường, trong mô hình, nước thải của bể ương và ao nuôi ốc hương được đưa về ao xử lý để cá đối làm thức ăn nên không ảnh hưởng đến môi trường và tăng lợi nhuận. .
Đây là mối quan hệ “cộng hưởng”, gắn bó chặt chẽ giữa hiệu quả kinh tế và môi trường. Dựa vào đặc điểm sinh học của đối tượng nuôi để góp phần giảm thiểu ô nhiễm hữu cơ, hạn chế nguy cơ bùng phát dịch bệnh trong ao nuôi.
Theo ông Phương, với hiệu quả của mô hình, có thể khẳng định đây là đối tượng nuôi mới có nhiều triển vọng. Tuy nhiên, để thực hiện thành công mô hình nuôi ốc hương bà con cần lưu ý một số điểm như chi phí đầu tư ban đầu cho mô hình khá lớn, phải chủ động được nguồn thức ăn.
Người nuôi ốc hương phải có hệ thống cung cấp nước và ôxy đầy đủ, đáp ứng cho ao nuôi mật độ cao. Ốc sử dụng thức ăn tươi sống nên lượng chất thải lớn, người nuôi phải thay nước liên tục và cần có diện tích ao nuôi để xử lý chất thải trong vụ nuôi.
“Trên cơ sở này, thời gian tới, Trung tâm Khuyến nông tỉnh sẽ tiếp tục nhân rộng mô hình ra các địa phương ven biển. Áp dụng các tiến bộ mới như hệ thống máy lọc nước tuần hoàn khép kín để quản lý chất lượng nước. Đồng thời, nên quy hoạch vùng nuôi ốc hương theo hướng ổn định, bền vững ”, ông Phương cho biết thêm.