Giờ đây, khi ngay cả ở những vùng quê, bóng dáng của cổng làng, cổng làng … đã trở nên xa vắng hiếm hoi … ta có thể tìm thấy nét trầm mặc, rêu phong ấy ngay giữa phố phường đông đúc, nhưng Thụy Khuê này. là con phố đặc trưng nhất của Hà Nội hiện còn lưu giữ được nhiều cổng làng. Mỗi khi có dịp đi qua con phố ấy, giữa dòng người tấp nập ngược xuôi, tôi vẫn thấy hồn quê qua từng mảng sơn bong tróc đang bừng lên trong nắng mai, qua từng góc chợ họp ngay. bên trong cổng làng nơi trồng rau, quả. , thịt cá được bày trong các thúng thay vì các sạp tranh thường thấy ở thành phố.
Cổng làng quê gợi lên trong tôi mùi rơm rạ, mùi bùn, mùi khói đốt ruộng, mùi thối rữa của lá rụng rơi trên mặt nước xếp thành lớp dưới ao, hồ, kênh, rạch… bồng bềnh trong nắng. những cảm giác chớm nở, thấm sâu, hồi sinh trong màu xanh mới. Cổng làng là nơi đi về, là tục lệ của mọi miền quê, có lẽ vì vậy mà không làng nào, thậm chí là xóm nào cũng giống nhau. Có một cổng gạch. Cổng được làm bằng đá. Cổng thành uy nghi. Cổng vắng lặng và mộc mạc. Nhưng dù thế nào đi nữa thì vẫn còn đó một vẻ vững chãi, trang nghiêm, để mỗi khi bước qua, lòng luôn cảm thấy bình yên. Từ đó sẽ có những con đường nhỏ dẫn vào sân đình, vào các xóm, làng.
Cổng làng là chốn đi về, là phong tục của mọi miền quê. (Hình minh họa)
Mùa hè đang tắt dần, những buổi chiều Hồ Tây vẫn còn oi ả, sóng lăn tăn mang hình dáng của những đám mây nặng trĩu. Ai nấy đều chờ đợi một cơn mưa trút xuống như gột rửa, như gọi từng cơn heo may giữa tiết thu trong trẻo. Giữa gạch nối, không hiểu sao lúc nào tôi cũng quay ngược về hướng Thụy Khuê. Phố vẫn đậm chất làng quê, làm giảm bớt mọi xô bồ, ồn ào. Đi vài chục mét, tôi bắt gặp chiếc cổng làng đầy hoài niệm, mỗi chiếc cổng mang một dáng vẻ riêng. Số 562 là cổng làng Yên Thái, xưa nổi tiếng với nghề làm giấy dó, trên cổng có đề bốn chữ vàng “Mỹ tục” do triều đình ban hành. Cổng Xanh ở đầu ngõ 514 Thụy Khuê ngày xưa có chức năng ngăn giặc dữ, cướp bóc… nay người dân cứ gọi là Cổng Xanh. Cổng làng Đông Xá, ngõ 444 Thụy Khuê, trong ký ức của những người già trong làng, ngày xưa có năm bậc lên xuống, nhưng theo thời gian, người dân đã phá bỏ để đi lại dễ dàng hơn. Cổng có dòng chữ “An Đông chính đường” được khắc khá nguyên vẹn ở giữa…
Người xưa vẫn quen gọi đất của Thụy Khuê Mân là đất Kẻ Bưởi, vì nơi đây thuộc đất Kẻ Bưởi – vùng đất cổ nằm ở phía Tây Bắc Thăng Long xưa. Vùng này xưa có 4 làng: Yên Thái, An Thổ, Đông Xá và Hộ Khẩu. Cổng làng trên phố Thụy Khuê lớn nhất làng Hộ Khẩu, được coi là “cửa ngõ”, xưa kia làng có hội họp hay sự kiện gì lớn cũng chỉ qua cổng này. Trước cổng là ba bậc đá, bên trên lát gạch đỏ. Cổng lớn ấy chỉ dành cho quan lại và kiệu, dân không đi. Dọc phố Thụy Khuê có rất nhiều cổng làng và tất cả đều nằm cạnh dãy nhà số chẵn. Bởi lẽ, vùng đất giáp bờ Nam Hồ Tây đều là làng nghề, tất cả cổng làng đều được xây dựng từ xa xưa đó.
Trải qua bao thăng trầm, phần lớn cổng đã được trùng tu, tôn tạo nhưng nét thời gian vẫn còn đó, rêu phong cũ kỹ, không hề bị vôi vữa, sơn phủ. Các câu đối bằng chữ Nho được chạm khắc trên hai mặt vẫn còn nguyên vẹn. Những cây bồ đề, cây bụt cổ thụ vẫn đổ bóng xuống từng khoảng sân rêu phong. Trước đây, dân làng gọi cổng làng bằng những cái tên quen thuộc nhưng ngắn gọn: Cổng Giếng, Cổng Hậu, Cổng Chùa, Cổng Đông, Cổng Cái, Cổng Xanh … Phía sau mỗi cổng là một ngôi đình, nơi sinh sống của cư dân. làm một công việc… trong một ngôi làng ổn định.
Giờ đây, cạnh mỗi cổng làng chắc sẽ có quầy trà đá, chợ cóc hay cặp bàn cờ của các cụ. Thời gian có thể thay đổi mọi thứ, nhưng chỉ cần cổng làng còn đó, những con người và câu chuyện xung quanh nó vẫn mang dáng dấp riêng, vẫn phảng phất những đường nét từ năm xưa. Người tứ phương đến lập nghiệp nhưng nhìn chung dân làng vẫn bám làng, tình làng nghĩa xóm vẫn hiền hòa. Hiếm hoi khắp dải Thụy Khuê vẫn còn tồn tại con đường gạch xéo dài vài trăm nét, thuộc làng nghề Yên Thái cổ hàng trăm năm tuổi. Nét xưa còn sót lại khiến người ta bùi ngùi nhớ đến câu nói dân gian nổi tiếng: “Sương giăng ngàn sương / Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ”. Đó là nhịp đập của làng quê, nhịp sống nhộn nhịp tràn trề sức sống.
Cách đây vài năm, chúng tôi có dịp trò chuyện với ông Nguyễn Văn Phú, khi đó đã ngoài 80 tuổi, đã làm nghề từ đình làng Yên Thái gần 20 năm. Chuyện làng xưa, chuyện thành xưa anh đều nhớ rõ. Anh cho biết, làng có ba thôn, mỗi thôn đều có cổng rất riêng biệt. Làng Đoài hay còn gọi là An Thái Đoài hay làng Cả có cổng Giếng. Thôn Thọ có cổng Hậu và cổng Xanh. Làng Đông có cổng Đông. Mỗi cổng có nhân vật và câu chuyện riêng. Trong số các cổng vào làng, cổng Giếng ở xứ Đoài xưa là cổng làng Cả, là cổng bề thế nhất. Ngày xưa, làng Yên Thái nằm trên đồi Kim Quy, hình con rồng bay lượn. Đầu rồng là khu vực đình làng. Hai mắt là hai giếng, một mắt là giếng nước cạnh đình Long Tỉnh trước cổng chính làng Yên Thái, một mắt là làng Tiên Thượng (Nghĩa Tân ngày nay). Vì vậy, cổng làng Đoài thường được gọi là cổng Giếng.
Có lẽ, ngoài Thụy Khuê, khó có nơi nào giữa phố phường còn lưu giữ nhiều cổng làng đến vậy. (Ảnh: Báo Giao thông)
Phía sau mỗi chiếc cổng làng bề thế giờ nằm ngay mặt phố là những chiếc cổng nhỏ rêu phong. Một làng nghề từng đông người qua lại như Yên Thái thì vô số cửa ngõ. Cửa ngõ phân định ranh giới thôn xóm cũng làm thành một không gian riêng biệt. Không như bây giờ, ngày xưa cổng làng có cánh. Mỗi buổi sáng, từ tờ mờ sáng thời gian, cánh cổng được mở ra, bắt đầu một ngày mới, và đêm muộn, cánh cửa được đóng lại. Sách về cổng làng của Vũ Duy Huân từng miêu tả: “Cổng làng ngày đêm mở ra để chống cướp bóc, ban đêm trong cổng có gác đèn leng keng, có giá để giáo mác, dao rựa, trâu đen bóng. Còi. Đêm đêm, bọn tuần tra về đây nhận việc, cắt cử nhau bảo vệ xóm làng ”. Bây giờ hầu hết các cửa đều không có cánh, cứ mở ra giữa mưa nắng, sớm tối.
Trò chuyện thư thái và hiểu thêm, làng Yên Thái không chỉ nổi tiếng với nghề làm giấy dó mà còn có nhiều truyền thuyết thật giả như sương khói phủ Tây Hồ. Ở cổng Hậu làng có đôi câu đối: “Tô Thủy lưu truyền văn học viên / Lý thành trĩ tả bút phong Cao” (Dòng Tô Lịch đưa văn phái đi xa / Nhà Lý thành so với bút lực cao). Các bô lão kể rằng, xưa cách cổng thành không xa là nhà của một vị quan nổi tiếng trong triều, người đỗ đầu trong làng. Chính vì vậy mà dân làng kính trọng, dựng nhà có gác tía, cử người canh gác suốt ngày đêm. Làng còn gắn liền với truyền thuyết từ thời Lý về vợ chồng “Ông Đậu Bà Đậu” đã cứu vua Lý khỏi bệnh về mắt. Tương truyền, thuở ấy vùng đất này có hai con sông là Thiên Phù và Tô Lịch bị ma quỷ nguyền rủa khiến vua bị bệnh. Theo các nhà tiên tri, triều đình đã cho lấp hai con sông đó. “Cậu Ba Đậu” để cứu vua bị rơi xuống sông. Cảm kích, nhà vua ban chiếu chỉ dụ dân về ở, trông coi chùa rồi lập nghề làm giấy dó. Có lẽ, ngoài Thụy Khuê, khó có nơi nào giữa phố phường còn lưu giữ nhiều cổng làng đến vậy. Vẫn là cổng tam quan, cổng chính ở giữa, lối phụ hai bên, xây vòm cuốn, có mái che.
Cổng làng vẫn còn đó, sâu hun hút giữa phố xá đông đúc. Niềm tự hào và tiếc nuối của những người dân trong làng khiến câu chuyện trở nên sôi nổi và xúc động hơn. Làm gì có chuyện tôi nhớ quê hương. Ở đó, dù không còn cổng làng, dù ký ức đã phai mờ nhưng vẫn còn đó hình bóng làng trong từng phong tục, tình cảm làng quê xa gần. Xưa nay, dù cuộc sống sung túc hay nghèo khó, người ta vẫn tự hào về những cổng làng uy nghiêm, trang trọng. Mỗi khi có dịp ngược lên Hồ Tây, tôi vẫn nhớ đôi câu đối: “Xưa kia Kim Lai hành đạo / Nam du Bắc ngoạn Tây Hồ”, nghĩa là từ xưa đến nay, đây là chính. đường để chiêm ngưỡng. Cảnh đẹp Hồ Tây. Nhìn từ hình cong, màu sơn rêu phủ lên hình cũ. Cùng chợ, cùng làng, cũng xì xào chuyện xưa, nay kể chuyện xưa. Cổng làng, dù là làng nào, có phải là làng của mình hay không, vẫn đi vào lịch sử, khắc sâu vào lòng người bao nỗi nhớ nhung, lưu luyến và thôi thúc tìm kiếm, lý giải. Ta đi đi lại lại bao nhiêu lần, vẫn ấp ủ, nhen nhóm biết bao mộng tưởng xa gần, rằng chính nơi ta đang đứng, xưa kia, đã chồng chất bao nhiêu trầm tích, nay vẫn bâng khuâng kỷ niệm bủa vây… /.