Để trở thành quốc gia mạnh về biển và làm giàu từ biển, Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện thể chế phát triển bền vững kinh tế biển, ưu tiên hoàn thiện hành lang pháp lý, đổi mới và phát triển mô hình tăng trưởng xanh. , bảo vệ môi trường, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh quốc tế của các ngành kinh tế biển, vùng biển và vùng ven biển, hoàn thiện cơ chế quản lý tổng hợp, thống nhất về biển.
Tạo sự đồng thuận trong toàn xã hội
Nghị quyết 36-NQ / TW nêu rõ: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về phát triển bền vững biển, tạo sự đồng thuận trong toàn xã hội; hoàn thiện thể chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển bền vững kinh tế biển; phát triển khoa học công nghệ và tăng cường công tác điều tra cơ bản biển; đẩy mạnh giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực biển.
Đồng thời, các địa phương cần tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức, kiến thức, hiểu biết về biển và đại dương, kỹ năng sinh tồn, thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, phòng, tránh thiên tai cho học sinh. học sinh, sinh viên các cấp học; tăng cường năng lực bảo đảm quốc phòng, an ninh và thực thi pháp luật trên biển; tích cực tăng cường và mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế trên biển; huy động các nguồn lực, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển bền vững biển, xây dựng các tập đoàn kinh tế biển mạnh.
Ông Lê Tấn Hổ, Phó Chủ tịch tỉnh Phú Yên cho biết, để thực hiện tốt Nghị quyết 36-NQ / TW, tỉnh tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền trong việc tổ chức thực hiện. , kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện các chính sách, giải pháp về phát triển và thu hút đầu tư; tiếp tục tuyên truyền, nâng cao nhận thức trong cán bộ, đảng viên, doanh nghiệp và nhân dân về vị trí, vai trò của kinh tế biển.
Tỉnh có chính sách tập trung thu hút, khuyến khích các nguồn lực xã hội tham gia vào các lĩnh vực kinh tế biển như năng lượng tái tạo, nuôi trồng thủy, hải sản quy mô công nghiệp, du lịch biển, định hướng phát triển. kinh tế biển xanh, bền vững, thân thiện với môi trường cũng như bảo vệ và phát triển cộng đồng địa phương …
Các hệ sinh thái biển, đảo, khoanh nuôi bảo vệ hệ sinh thái san hô, cỏ biển trên các vùng biển của tỉnh được chú trọng bảo vệ: đầm Cù Mông, vịnh Xuân Đài, Hòn Yến, Hòn Chùa, Hòn Yến. Lao Mái Nhà, Hòn Nưa … Lập kế hoạch phục hồi và phát triển các khu vực, hệ sinh thái, đa dạng sinh học bị suy giảm, kiểm soát chặt chẽ các nguồn thải có nguồn gốc từ đất liền, từ biển, đảo … Ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ trong cảnh báo và giám sát động đất, sóng thần, bão lụt; quản lý tài nguyên, môi trường biển và hải đảo của tỉnh.
Trên cơ sở tiềm năng, lợi thế của tỉnh, Bà Rịa – Vũng Tàu có một số định hướng phát triển kinh tế biển bền vững trong giai đoạn tới, tiếp tục nâng tầm các ngành kinh tế biển của tỉnh đã được định hình. . Đặc biệt, tỉnh tiếp tục xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển, định vị thương hiệu du lịch của tỉnh theo hướng nâng cao chất lượng trên bản đồ du lịch trong nước và quốc tế; tập trung đầu tư hạ tầng giao thông kết nối đa phương thức, liên vùng, liên vùng, hình thành hệ sinh thái logistics để cụm cảng Cái Mép – Thị Vải thực sự trở thành cảng trung chuyển quốc tế; nghiên cứu triển khai, thu hút đầu tư vào các cảng tàu khách quốc tế chuyên dùng để tạo động lực mới cho phát triển du lịch.
Tỉnh ưu tiên nguồn lực đầu tư cho khoa học công nghệ biển, nhất là lĩnh vực hải dương học, gắn khoa học công nghệ với phát triển du lịch biển, tham quan học tập, giáo dục cộng đồng; sớm đầu tư dự án Khu khoa học và công nghệ biển thành phố Vũng Tàu; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực biển đáp ứng yêu cầu quản lý biển cũng như đáp ứng yêu cầu khai thác bền vững tài nguyên, bảo vệ tốt môi trường biển và phát triển kinh tế biển có hiệu quả …
Tạo môi trường chính sách
PGS.TS. Vũ Văn Tích, Trưởng Ban Khoa học và Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội cho biết, căn cứ Nghị quyết số 36-NQ / TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2020, 2045, mặc dù nhiều nội dung đã được các bộ, ngành triển khai nhưng hầu hết tập trung vào điều tra cơ bản tài nguyên và môi trường ven biển, chương trình nghiên cứu cơ bản và chương trình nghiên cứu. định hướng ứng dụng liên quan đến biển.
Cho đến nay, việc nghiên cứu khoa học công nghệ ứng dụng và phát triển khoa học công nghệ làm cơ sở để thu hút đầu tư, phát triển kinh tế – xã hội các tỉnh ven biển vẫn còn thiếu. theo tinh thần Nghị quyết Trung ương, cũng như Văn kiện Đại hội Đảng bộ các tỉnh ven biển.
PGS.TS. Ông Vũ Văn Tích nhấn mạnh việc triển khai chương trình khoa học và công nghệ là cơ sở để thu hút đầu tư, phát triển các thành phần kinh tế, ngành nghề hoặc mô hình phát triển của các khu kinh tế đặc thù trong vùng. trình bày như một thách thức lớn đối với nền khoa học và công nghệ của đất nước.
Tại Diễn đàn phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Lê Minh Ngân nhấn mạnh cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ, tạo lập chính sách và môi trường pháp lý cho kinh tế biển. kinh tế xanh, bền vững để khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường, phát triển bền vững kinh tế biển, đẩy mạnh thu hút và huy động các nguồn lực xã hội để phát triển các thành phần kinh tế. các vùng biển mới như phong điện xa bờ, nuôi biển xa bờ; tăng cường công tác điều tra cơ bản, tập trung thăm dò, tìm kiếm các loại khoáng sản, kim loại chiến lược.
Các địa phương khẩn trương triển khai thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch liên quan đến biển và hải đảo, phát triển kinh tế biển, trọng tâm là Quy hoạch tổng thể cả nước giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Quy hoạch không gian biển quốc gia; Quy hoạch tổng thể khai thác và sử dụng bền vững tài nguyên ven biển; Quy hoạch tổng thể năng lượng quốc gia; Quy hoạch các vùng biển, đảo phục vụ nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.
Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kết nối các vùng kinh tế động lực ven biển, phát triển hệ thống giao thông hàng hải bền vững và các-bon thấp, các cảng thông minh và thích ứng với khí hậu cũng như các cơ sở hạ tầng vùng biển và ven biển khác, quy hoạch sử dụng đất đô thị, công nghiệp, vùng ven biển và vùng biển để phát triển kinh tế bền vững . Phát triển du lịch dựa vào thiên nhiên và các hoạt động du lịch dựa trên cơ sở bảo vệ và bảo tồn các hệ sinh thái biển và ven biển.
Theo Thứ trưởng Lê Minh Ngân, cần khuyến khích đầu tư cho nghiên cứu và phát triển công nghệ, chuyển giao công nghệ và nâng cao năng lực; thực hiện các dự án thí điểm tiếp cận tất cả các nguồn năng lượng tái tạo biển, bao gồm năng lượng gió, sóng, thủy triều, dòng chảy, nhiệt và mặt trời, nhằm khai thác tối đa tiềm năng của năng lượng biển. tài nguyên tái tạo biển của Việt Nam.
Theo kết quả khảo sát của Chương trình Đánh giá Năng lượng Châu Á của Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam có tiềm năng gió trung bình so với các nước trên thế giới và trong khu vực nhưng thuộc hàng lớn nhất thế giới. Khu vực Đông Nam Á với tổng tiềm năng điện gió ước đạt 513.360MW, lớn hơn 200 lần so với công suất của nhà máy thủy điện Sơn La và gấp hơn 10 lần tổng công suất dự báo của ngành điện Việt Nam vào năm 2020. Trong đó, khu vực ven biển cực Nam của Miền Trung Việt Nam có mật độ năng lượng khoảng 400 – 600W / m². Ngoài ra, ở khu vực Vịnh Bắc Bộ còn có mật độ năng lượng từ 300-400W / m².
Các tỉnh, thành phố tăng cường hợp tác quản lý, giám sát và giải quyết ô nhiễm môi trường vùng biển; giảm đáng kể ô nhiễm môi trường biển từ các hoạt động trên đất liền cũng như ô nhiễm từ tàu và ngư cụ bị loại bỏ; thúc đẩy bảo vệ đa dạng sinh học, hệ sinh thái biển và rạn san hô phù hợp với xu thế quốc tế.
Việt Nam tích cực tham gia các sáng kiến và hành động toàn cầu nhằm giải quyết ô nhiễm nhựa đại dương theo Nghị quyết của Hội đồng Môi trường Liên hợp quốc, cũng như tham gia có hiệu quả vào việc giải quyết các thách thức toàn cầu. yêu cầu về môi trường, khí hậu biển, tận dụng cơ hội từ xu hướng giảm phát thải khí nhà kính, chuyển đổi năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch sang năng lượng tái tạo hiện nay.