PHát tại diễn đàn “Chiến lược tăng vốn của doanh nghiệp trong hoàn cảnh mới” do Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp tổ chức mới đây, ông Võ Tấn Thành – Phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho biết, tăng trưởng tín dụng trong 8 tháng đầu năm 2022 cao hơn cùng kỳ năm 2021, đạt 9,91%, nhiều ngân hàng đã gần hết hạn mức tín dụng, cung ứng vốn cho sản xuất kinh doanh dịp cuối năm. năm đang thu hẹp. Trong khi đó, gói vay hỗ trợ lãi suất 2% theo Nghị định 31/2022 / CP giải ngân chậm, điều kiện cho vay khắt khe khiến DN khó tiếp cận, giải ngân chỉ đạt khoảng 1%. Kênh huy động vốn trên thị trường chứng khoán sau hai năm bùng nổ đã xuất hiện nhiều lỗ hổng và khả năng phục hồi không ổn định. Nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh, tái cơ cấu, phục hồi và phát triển khi dịch Covid-19 đang trong tầm kiểm soát của các doanh nghiệp là rất lớn, nhưng vẫn khó tiếp cận vốn ngân hàng, nhất là gói hỗ trợ lãi suất tín dụng. %.
Ông Phạm Ngọc Hùng – Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp TP.HCM phản ánh, do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, doanh nghiệp bỏ chợ nhiều, chủ yếu do cạn vốn, không tiếp cận được vốn tín dụng ngân hàng. Do không có tài sản thế chấp, làm ăn thua lỗ nên hồ sơ tài chính không đủ điều kiện. Theo ông Hùng, cần có cơ chế bảo lãnh vay vốn thuận lợi hơn cho doanh nghiệp, bởi hiện nay vẫn yêu cầu doanh nghiệp phải có tài sản mới được bảo lãnh nên không khác gì thế chấp ngân hàng. Việc bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn cần đứng trên góc độ phát triển kinh tế, khi doanh nghiệp có vốn thì sẽ đóng thuế và tạo công ăn việc làm. Dưới góc độ mục tiêu là thu hồi các đồng tiền bảo lãnh với các điều kiện như tín dụng ngân hàng, doanh nghiệp không cần được bảo lãnh.
Ý kiến của đại diện Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cho thấy một góc nhìn khác là nguồn vốn tín dụng ngân hàng phục vụ sản xuất kinh doanh không thiếu. Theo đại diện Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, mục tiêu tăng trưởng tín dụng đặt ra cho năm 2022 là 14%, 8 tháng đạt 9,91%, nhưng dư nợ tín dụng 4 tháng còn lại khoảng 4,1%. khoảng 410.000 tỷ đồng theo quy mô tín dụng, tương đương 125% GDP). Điều này cho thấy các ngân hàng không thiếu vốn cho vay sản xuất kinh doanh, nếu doanh nghiệp có đủ điều kiện sẽ được vay. Ngân hàng có thể tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận vốn, thậm chí hỗ trợ lãi suất, nhưng nếu doanh nghiệp không đủ điều kiện thì không tiếp cận được vốn vì ngân hàng phải đảm bảo an toàn tín dụng.
Ngay cả với chính sách lãi suất, Nhà nước cũng đã cho phép cơ chế thỏa thuận giữa ngân hàng và khách hàng theo nhu cầu tùy theo mức độ tín dụng của ngân hàng với khách hàng. Doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp siêu nhỏ thường gặp khó khăn khi vay vốn ngân hàng, tuy nhiên ngoài hình thức vay tín chấp thì còn có hình thức vay tín chấp, doanh nghiệp còn phải đáp ứng các điều kiện về tín dụng. Để được vay tín chấp, doanh nghiệp cần công khai, minh bạch về dòng tiền, doanh thu, doanh thu… để ngân hàng kiểm soát và thu hồi được nợ. tiếp cận nguồn vốn này.
TS Lê Duy Bình – Giám đốc điều hành Econimica Việt Nam cho rằng, nếu doanh nghiệp không có phương án kinh doanh hiệu quả, không đảm bảo được khả năng trả nợ mà ngân hàng vẫn cho vay thì sẽ có nguy cơ mất an toàn tín dụng. Ngân hàng không cần cho càng nhiều vốn càng tốt, nhưng phải đưa vốn đến đúng doanh nghiệp sử dụng vốn tốt để tạo cơ hội phục hồi và phát triển. Đó cũng là một cách để giữ ổn định nền kinh tế, bởi ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, hệ thống ngân hàng là huyết mạch của nền kinh tế. , hiệu quả.
Không phải doanh nghiệp gặp khó khăn, có nhu cầu mới tiếp cận được vốn mà bản thân doanh nghiệp cần có năng lực quản lý tài chính, sử dụng vốn tốt, có khả năng tổ chức sản xuất kinh doanh. hiệu quả và phải chứng minh rằng, vấn đề về vốn có một giải pháp khả thi.