BNEWSKhi hóa chất nông nghiệp ngày càng gây lo ngại về tác động môi trường và sức khỏe cộng đồng của chúng, nhiều quốc gia đang thúc đẩy canh tác hữu cơ như một giải pháp xanh và bền vững.
Tuy nhiên, việc chuyển đổi phương thức canh tác này không ngay lập tức nhận được sự ủng hộ của nông dân khi có những lo ngại về năng suất cây trồng, bên cạnh sự phản đối của các công ty hóa chất. Nông nghiệp.
Những nỗ lực tiên phong
Chiến lược đa dạng sinh học “Farm to Fork” của Liên minh châu Âu (EU) cam kết giảm 20% việc sử dụng phân bón hóa học và đặt mục tiêu dành ít nhất 25% diện tích. đất canh tác hữu cơ.
Tại Thụy Sĩ, 15% nông hộ sử dụng sản phẩm hữu cơ và không sử dụng thuốc trừ sâu hóa học, theo số liệu của Văn phòng Thống kê Liên bang. Ngành nông nghiệp lùi một bước để có thể đạt được những mục tiêu tham vọng hơn.
Năm ngoái, sáng kiến liên quan đến việc ngừng trợ cấp cho nông dân sử dụng thuốc trừ sâu và sáng kiến ”chống thuốc trừ sâu” nhằm thực hiện lệnh cấm hoàn toàn thuốc trừ sâu tổng hợp đã được đưa ra bỏ phiếu trên toàn quốc. Mặc dù chưa được phê chuẩn, nhưng nếu thành công, nó sẽ đưa Thụy Sĩ trở thành quốc gia tiên phong trong lĩnh vực nông nghiệp hữu cơ, trở thành quốc gia châu Âu đầu tiên cấm các sản phẩm như thuốc diệt cỏ tổng hợp và thuốc diệt nấm.
Ở một quốc gia khác, Sri Lanka, vào tháng 12 năm 2019, Tổng thống đắc cử lúc đó, Gotabaya Rajapaksa, đã cam kết “thúc đẩy và phổ biến nông nghiệp hữu cơ” trong thập kỷ tới và thực hiện “một cuộc cách mạng” trong việc sử dụng phân bón ”. Sự thay đổi liên quan đến việc chuyển đổi các làng nông nghiệp truyền thống sang chỉ sử dụng phân hữu cơ và cung cấp miễn phí cả phân hữu cơ và vô cơ cho nông dân.
Vào tháng 4 năm 2021, ông Rajapaksa tuyên bố cấm nhập khẩu phân bón hóa học và hóa chất nông nghiệp, bao gồm thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ. Lý do là để kiểm soát chi phí chăm sóc sức khỏe gây ra bởi việc lạm dụng hóa chất trong nông nghiệp.
Trước sự phản đối của cộng đồng nông dân và lo sợ giá lương thực tăng cao, vào tháng 11 năm 2021, chỉ bảy tháng sau khi được ban hành, lệnh cấm đã bị lật tẩy. Tuy nhiên, Chính phủ vẫn khẳng định “chính sách nông nghiệp của đất nước tập trung vào việc xây dựng một nền nông nghiệp xanh, tập trung vào việc sử dụng duy nhất phân bón hữu cơ”.
Chính sách của ông Rajapaksa bước đầu giành được sự ủng hộ của nông dân. Cuộc khảo sát của Verité Research cho thấy gần 2/3 số nông dân được hỏi cho biết họ ủng hộ tầm nhìn của chính phủ về nông nghiệp hữu cơ, nhưng gần 80% những người ủng hộ cho biết một sự thay đổi như vậy sẽ cần hơn một năm.
Những thách thức cần vượt qua
Tuy nhiên, hiện chỉ có một số quốc gia có chính sách chính thức để chuyển đổi ngành nông nghiệp sang 100% hữu cơ, và trong số đó, chưa có quốc gia nào thực hiện chuyển đổi thành công. Năm 2008, vương quốc nhỏ Bhutan (Butan) ở Nam Á cam kết sẽ hoàn toàn hữu cơ vào năm 2020 nhưng chỉ 10% sản lượng cây trồng và 1% diện tích đất canh tác được chứng nhận. trước thời hạn.
Kết quả cho đến nay vẫn chưa được khích lệ. Một nghiên cứu năm 2018 của các nhà nghiên cứu từ Đại học Humboldt Berlin cho thấy năng suất canh tác hữu cơ ở Bhutan thấp hơn trung bình 24% so với sản xuất nông nghiệp thông thường. Dữ liệu từ Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc cho thấy nước này vẫn phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu thực phẩm phi hữu cơ, chiếm 16% lượng nhập khẩu trong năm 2017.
Sự phản đối của nông dân và các công ty hóa chất nông nghiệp không phải là trở ngại duy nhất mà những người ủng hộ nông nghiệp hữu cơ phải đối mặt. Năng suất thấp cũng là một thách thức đáng kể.
Theo Adrian Müller tại Viện Nghiên cứu Nông nghiệp Hữu cơ, năng suất trung bình từ canh tác hữu cơ thấp hơn khoảng 20% so với canh tác thông thường. Nhưng ông và các chuyên gia khác nói rằng có nhiều cách để giải quyết vấn đề này thông qua nông học, phát triển các giống năng suất cao cho nông nghiệp hữu cơ, và đào tạo và khuyến khích nông dân.
Hiện tại, nông dân hữu cơ phải canh tác các giống cây trồng được phát triển cho các phương thức canh tác thông thường. Điều này khiến họ gặp bất lợi ngay lập tức về năng suất. Theo ông Muller, các nước cũng cần xây dựng chương trình tiếp cận và đào tạo tốt cho nông dân, hỗ trợ cần thiết, đầu tư vào việc lai tạo các giống cây trồng hữu cơ năng suất cao và cung cấp đủ phân bón hữu cơ. Ông lập luận rằng lợi ích lâu dài xứng đáng với chi phí ban đầu.
Ngoài ra, xu hướng canh tác hữu cơ và bền vững hơn đã buộc các tập đoàn hóa chất nông nghiệp lớn như Syngenta (Thụy Sĩ) phải phát triển các loại thuốc trừ sâu và phân bón ít độc hại và thân thiện với môi trường. môi trường hơn.
Tập đoàn Thụy Sĩ là một trong những tập đoàn đang nghiên cứu các sản phẩm sinh học để thay thế các hóa chất tổng hợp từ các hợp chất và sinh vật tự nhiên. Cải tiến mới nhất, hiện đang được thử nghiệm ở Trung Quốc, là một chế phẩm sinh học sẽ làm giảm sự rửa trôi và do đó sẽ giảm lượng phân bón cần thiết.
Những thành công của Ấn Độ
Ở Ấn Độ, phân bò được sử dụng để tạo ra khí sinh học, cung cấp năng lượng sạch cho các hộ gia đình và sau đó được sử dụng để bón đất, cải thiện chất lượng của đất.
Cách làm này vừa tiết kiệm chi phí hơn so với sử dụng phân bón hóa học, vừa giảm thiểu nạn phá rừng bằng khí sinh học tự tạo. Phân hữu cơ giúp cải thiện chất lượng đất, tăng khả năng giữ nước để chống chịu với hạn hán tốt hơn.
Ban đầu, mọi người có định kiến rằng năng suất cây trồng sẽ giảm khi sản xuất theo phương pháp hữu cơ thay vì sử dụng các sản phẩm hóa học. Trong khi đó, chi phí lắp đặt hệ thống sản xuất khí sinh học trị giá khoảng 30.000 rupee (430 USD) cũng là một trở ngại đối với một số nông dân.
Tuy nhiên, dự án sau đó đã cho thấy hiệu quả về chi phí và năng suất cao trên các ruộng áp dụng phương pháp canh tác này, đồng thời người dân cũng nhận được sự ủng hộ. Ngoài ra, nông dân còn được dạy cách sử dụng giun đất để tạo phân bón và tạo ra các loại phân bón tự nhiên và thuốc trừ sâu hữu cơ khác.
Nhờ áp dụng phương pháp hữu cơ trong canh tác, nông dân có thể để ruộng trong 2 tuần mà không cần tưới nước kể cả trong đợt nắng nóng vì hiện nay chất đất đã được cải thiện và có thể giữ ẩm lâu hơn. Ngay cả trên đất ẩm, lượng mưa hiếm hoi sẽ được giữ lại nhiều hơn, thấm dần vào các tầng chứa nước, giúp nước ngầm được tái sinh.
Giờ đây, nông dân ở nhiều vùng của Ấn Độ có thể trồng trọt ổn định hơn mà không cần sử dụng phân bón hóa học, thuốc trừ sâu hoặc khai thác một lượng lớn nước ngầm hạn chế. Trung bình, sản lượng lúa đã tăng 30 – 40% / năm kể từ khi họ chuyển đổi sang canh tác hữu cơ trong khi chi phí sản xuất nông nghiệp cũng giảm 35%.
Bên cạnh việc có thể thu hoạch hai vụ một năm, nông dân Ấn Độ hiện có thể trồng rau, chăn nuôi gia cầm và trồng các loại cây nông nghiệp khác như yến mạch, lúa miến và ngô.
Sikkim, một bang ở Đông Bắc Ấn Độ, tuyên bố đã đạt được trạng thái canh tác hữu cơ hoàn toàn vào năm 2016. Tầm nhìn được Thủ hiến bang công bố lần đầu tiên vào năm 2003 và vào năm 2010, Sứ mệnh Nông nghiệp Hữu cơ đã được đưa ra để thực hiện trên thực tế.
Theo dữ liệu từ bộ phận nông nghiệp và thực phẩm của chính phủ bang, việc chuyển đổi sang canh tác hữu cơ ở Sikkim, nhà sản xuất gia vị lớn thứ hai thế giới, không có sự sụt giảm đáng kể. vào sản lượng của các loại cây trồng chính.