Trong lần tìm về những dấu vết tạo nên gu thẩm mỹ của đời sống văn hóa, giải trí đô thị Hà Nội, từ lâu tôi đã gặp lại nhạc sĩ nổi tiếng Nguyễn Thiện Tơ (1921 – 2022) trong vai trò người làm bệ đỡ. ủng hộ những sáng tạo âm nhạc của giữa thế kỷ 20.
Nhạc sĩ Nguyễn Thiện Tơ vừa từ trần vào khoảng 17h ngày 18/8 tại Hà Nội, hưởng thọ 102 tuổi.
Với tuổi đời hơn một thế kỷ, cũng là tác giả tiền chiến cuối cùng còn sống trên đất nước, Nguyễn Thiện Tơ trong cuộc đời của mình xứng đáng là một nhân chứng uy tín để nói về lịch sử tân nhạc. Nhưng anh ấy rất khiêm tốn khi nói đến vai trò của mình trong các cuộc trò chuyện.
Toàn bộ với những bến tàu cũ
Tôi đã có cơ hội gặp anh ấy nhiều lần trong hơn 20 năm qua. Những lần đầu tiên luôn có bóng dáng của bà Hà Tiên, vợ ông, ở bên. Người quen vẫn gọi ngôi nhà là “Bác Tổ Tiên” là biểu tượng của hạnh phúc đến đầu bạc răng long.
Không những thế, bà Tiên còn là nàng thơ trong “dáng đẹp ba nàng tiên quỳ gối đọc kinh thánh hiền” nguyên mẫu cho bài hát đầu tay “Nhà thờ vắng lặng” (1938).
Bài hát này được xuất bản năm 1941, trong tuyển tập lời do Jeannine Lệ Thủy, Phí Tâm Yến và Trần Hợi – những tài tử trẻ gốc Hà Thành sáng tác.
Nhưng có lẽ Nguyễn Thiện Tơ viết nhiều nhất từ cuối những năm 1940 đến những năm 1950, từ những bài hát chủ đề lãng mạn đến những điệu nhảy (Qua bến xưa, Tiếng tre bên sông, Nhắn gió chiều, Trên đường về.) về chủ đề quê hương (Tiếng hát Biển Lời – lời Hoàng Giác, Chiều quê)) và thậm chí thúc đẩy một cuộc sống mới sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc năm 1954 (Thanh xuân kiến thiết, Nhắn em, Con thuyền tự do – lời Trịnh Kính).
Bài hát cuối cùng cũng là bài hát được viết khi người vợ mất năm 2012, chủ đề gợi nhớ lại ca từ viết trong bài hát Mưa đầu tiên, đó là dòng “Tâm hồn thánh thót mưa rơi, lặng buồn” Phi Tâm Yến viết cho một dịp giáng sinh. đêm năm 1938, với khung cảnh mùa đông đặc trưng của miền Bắc.
Thật hiếm tìm thấy một tình yêu bền vững như thế trong đời tư của một nghệ sĩ, ở một nhạc sĩ từng trải ở những chốn phóng khoáng nhất trong xã hội cũ như phòng trà, sàn nhảy, quán nhậu.
Đọng lại trong âm nhạc của Nguyễn Thiện Tơ có lẽ là một phong cách văn hóa Hà Thành, nằm trong ảnh hưởng chung của dòng nghệ thuật lãng mạn phương Tây đến đời sống văn hóa giải trí đô thị Hà Nội. cội nguồn từ các phong trào văn nghệ giai đoạn 1930-1945.
Ông thuộc thế hệ sinh những năm 1920, thay thế dần vai trò của thế hệ “tiền chiến” của các nhà thơ Thơ Mới, Tựu văn Đoàn.
Thế hệ của ông đã tạo nên một khung cảnh văn hóa đô thị hiện đại, nhất là sau năm 1945 và ở vùng tạm chiếm trước năm 1954. Trong đó, hình ảnh con người bộc lộ cảm xúc trực tiếp hơn, những lời yêu thương được bộc lộ. da diết hơn, tình cảm hơn nhưng vẫn giữ nguyên những lời ca cổ trang, da diết.
Nhạc của ông thường có tính chất ca khúc trên nền điệu múa nên hợp thời, hợp thị hiếu thành thị bấy giờ, về cơ bản tôn lên vẻ đẹp dung dị, hài hòa, tao nhã.
Khi trầm ngâm, trầm ngâm, khi sôi nổi, âm nhạc và lời ca tạo nên ấn tượng về một thời người xa nhau gặp nhau say đắm: “Bên dòng sông trong lòng vương vấn người hôm nay phương xa, với heo may. may ta về bến xưa ”(Qua bến xưa – 1949).
Ban Nhạc Việt – Đài Hà Nội khoảng năm 1950, Nguyễn Thiện Tơ thứ 2 từ phải sang – Ảnh tư liệu gia đình
Một hợp âm hiện đại cho thành thị
Không phải vô cớ mà Nguyễn Thiện Tơ bộc lộ một sắc thái âm nhạc mới cộng hưởng với tình cảm đô thị hiện đại đương thời.
Ngay từ những năm đầu thập niên 1940, ông đã hoạt động cực kỳ sôi nổi trong không gian âm nhạc của các quán bar, phòng trà hay sàn nhảy ở Hà Nội, cộng tác với nhiều nhạc sĩ, ca sĩ đương đại miền Bắc. Nam giới.
Ngay từ khi mới chập chững biết đi, anh đã có mặt với tư cách là nhạc công trong các nhóm nhạc đầu tiên như Myosotis (Đóa hoa) của Thẩm Oánh và Dương Thiệu Tước. Sau khi biểu diễn lần đầu tiên tại một buổi hòa nhạc tại Nhà hát Majestic (nhà hát tháng 8 ngày nay) vào năm 1936, ông trở thành một nhạc sĩ chuyên nghiệp.
Anh cũng là một trong những nghệ sĩ chơi các thể loại quốc tế phổ biến như blues và jazz cũng như thành thạo các nhạc cụ từ guitar Tây Ban Nha đến guitar Hawaii và cuối cùng là sáo.
Kỹ năng này khiến anh luôn nằm trong số những nhạc sĩ được các ban nhạc, phòng trà mời gọi như nhóm nhạc sĩ Nga S. Milewitch chơi ở Tavern Royale (91 Đinh Tiên Hoàng ngày nay) hay nhóm của Nguyễn Xuân Khoát chơi ở nổi tiếng nhất. Vũ trường Takara trước năm 1945 trên phố Khâm Thiên.
Khi dạy guitar tại số nhà 22 Charron (Mai Hắc Đế), nơi ông đã sống mấy chục năm qua, ông cũng đã góp phần truyền lại cây đàn Hawaii tuyệt vời cho một tên tuổi mà sau này đã tạo nên phong cách âm nhạc của riêng ông. Đội tiêu chuẩn.
Ông còn là nhạc công của Ban Nhạc Việt, một đoàn nghệ sĩ quan trọng làm nên linh hồn của chương trình ca nhạc đặc biệt của Đài Hà Nội giai đoạn 1949 – 1953, đã trình diễn hầu hết các ca khúc hay nhất. của tân nhạc Việt Nam, kể cả những ca khúc từ thời kháng chiến.
Phần âm nhạc của chương trình này do các ca sĩ Ngọc Bảo, Minh Đỗ, Bích Thơ, Tâm Vân… thể hiện đã tạo nên kỷ niệm một thời xôn xao mà lòng người vẫn lưu luyến.
Vẻ đẹp cũng không loại trừ sự dịu dàng, nét đặc trưng trong phong cách nghệ thuật của các nhạc sĩ Hà Nội thập niên 1950 như Nguyễn Thiện Tơ hay các tác giả gần gũi như Hoàng Giác, Tạ Tấn, Hoàng Dương, Nguyễn Văn Quỳ …
Họ cũng là những người đã ở lại Hà Nội và tiếp tục cuộc đời âm nhạc của mình, lưu giữ chút duyên dáng quá khứ cho thành phố đầy hoa trái này.
Bài hát đầu tiên của Nguyễn Thiện Tơ được xuất bản – Nhà thờ trong bóng – in trong tập Tiếng gió trong ngày hè, Asia Press, Hà Nội năm 1941 – Ảnh: NGUYỄN TRUNG QUÝ
Nhận xét về sự sôi động của âm nhạc giai đoạn 1949 – 1954, nhà nghiên cứu âm nhạc người Ireland, Tiến sĩ Lonán O’Briain (Đại học Nottingham, Vương quốc Anh), trong một cuốn sách nghiên cứu Tiếng nói Việt Nam (Nhà xuất bản Đại học Oxford, 2021), nói rằng Nguyễn Thiện Tơ là một trong những người đã tạo ra một chất lượng âm nhạc mới mang tính quốc tế bản địa thông qua làn sóng radio.
Chất lượng này, tất nhiên, bắt nguồn từ các sân khấu được biểu diễn trong nhà hát hoặc quán bar âm nhạc. Không gian âm thanh của một đô thị như Hà Nội, nhờ đó mà phát triển, mang lại gu thẩm mỹ cho người dân thị thành, vẫn còn ảnh hưởng đến ngày nay.
Lâu nay, người ta thường nhắc đến những gương mặt hay dòng nhạc chính thống, những ca khúc gắn liền với những sự kiện trọng đại của đất nước hay những giai thoại phóng túng của dòng nhạc lãng mạn, mà người ta thường gọi bằng thuật ngữ nhạc tiền chiến.
Nhưng đời sống giải trí của Hà Nội được vận hành đều đặn qua hàng chục năm là nhờ những nhạc sĩ vừa là nhạc công vừa là nhạc công như Nguyễn Thiện Tơ, hay một số đàn anh khác như Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn. Van Giep, Nguyen Huu Hieu or Luu Quang Duyệt. Nhiều người có thể đã bị lãng quên, nhưng lịch sử của tân nhạc nhất định vẫn còn đó.