Theo Đề án phòng, chống sạt lở bờ biển, bờ sông, từ nay đến năm 2030, tỉnh Kiên Giang cần đầu tư xây dựng 200 công trình, với tổng kinh phí 17.406 tỷ đồng.
Tập trung trồng rừng phòng hộ ven biển
Kiên Giang là tỉnh có hơn 200 km bờ biển, chạy qua nhiều huyện, thành phố của tỉnh. Đai rừng phòng hộ ven biển rất quan trọng, là lá chắn sống động trước thiên tai, bảo vệ đê biển khỏi xói mòn, sạt lở do sóng biển gây ra.
Theo chân các cán bộ kiểm lâm của Ban Quản lý rừng Kiên Giang ra biển, tôi mới thấu hiểu hết tầm quan trọng của rừng phòng hộ ven biển và những vất vả, gian khổ của công việc trồng rừng, trồng rừng trên biển. .
Đoạn đường từ Quốc lộ 63 đến cửa sông Xẻo Quao (xã Thuận Hòa, huyện An Minh, Kiên Giang) khá quanh co, qua nhiều cây cầu giao thông nông thôn, chỉ đủ cho xe bốn bánh đi qua. Nhiều nơi, phải có người xuống làm hoa tiêu thì tài xế mới lái qua được. Càng đến gần biển càng khó đi và cuối cùng bạn phải xuống xe máy khi còn cách biển hơn 1 km. Để ra biển, chúng tôi phải mượn trường hợp của anh Trần Hoàng Tuấn, một hộ dân nhận khoán bảo vệ rừng ở ấp Xẻo Quao, xã Thuận Hòa.
Vỏ máy uốn lượn để tránh vỏ máy của người dân trồng ven cửa sông thoát ra biển. Cửa sông Xẻo Quao được trồng và bảo vệ khá tốt, với 2 loại cây chính là rừng ngập mặn và mắm.
Xây dựng các công trình khắc phục sự cố sạt lở ảnh hưởng trực tiếp đến an toàn dân cư, cơ sở hạ tầng quan trọng ven sông, ven biển, rừng phòng hộ ven biển, đặc biệt là rừng ngập mặn trực tiếp bảo vệ đê điều. biển.
Nhiều diện tích rừng ven biển ở đây đã được các hộ dân giao khoán chăm sóc, bảo vệ, với nguồn sinh kế chính là nuôi trồng thủy sản dưới tán rừng. Hộ ông Trần Hoàng Tuấn được giao khoán tổng diện tích 18 ha, trong đó được khai thác 40% diện tích mặt nước để nuôi tôm sú, sò huyết, cua biển.
Ông Tuấn cho rằng, ở vùng ven biển, rừng phòng hộ rất quan trọng, nếu mất hết đai rừng thì không gì chống chọi được với thiên tai khi có mưa lớn, bão lụt. Ở đây, bão kết hợp với triều cường là những đợt sóng khủng khiếp nên mọi người đều có ý thức bảo vệ rừng, cũng là bảo vệ sinh kế của gia đình. Nếu sóng làm vỡ bờ, tôm cua sẽ thoát ra ngoài, thất thu.
Trong kế hoạch phòng, chống thiên tai, ngoài việc đầu tư các công trình, tỉnh Kiên Giang luôn chú trọng, tập trung nguồn lực trồng rừng phòng hộ ven biển. Theo đó, ngoài diện tích rừng ngập mặn được trồng mới và phục hồi thuộc các dự án xây dựng đê chắn sóng, bồi đắp, tạo bãi ven biển Tây, tỉnh Kiên Giang đã và đang triển khai trồng mới tổng diện tích rừng. Dự kiến sau khi hoàn thành dự án xây dựng bờ kè là hơn 644 ha.
Ban quản lý rừng Kiên Giang có kế hoạch trồng rừng bãi bồi và rừng phòng hộ ven biển. Giải pháp chính để bảo vệ cây mới trồng là xây tường mềm. Giai đoạn 2021-2025, mục tiêu trồng 63 ha rừng hỗn giao gồm bần và bần, địa điểm thực hiện là bãi bồi ven biển huyện An Biên – An Minh, với tổng nhu cầu vốn đầu tư là 20,4. tỷ đồng từ ngân sách trung ương hỗ trợ.
Đầu tư vào 200 dự án phòng chống thiên tai
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang Lê Quốc Anh vừa ký quyết định phê duyệt Đề án phòng, chống sạt lở bờ biển, bờ sông giai đoạn 2021 – 2015, định hướng đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh. Theo đó, công tác phòng chống sạt lở bờ biển, bờ sông cần được triển khai đồng bộ, vừa để xử lý cấp bách trước mắt, vừa có giải pháp căn cơ lâu dài, gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ và phát triển rừng ngập mặn. bảo vệ bờ biển và tạo sinh kế cho người dân.
Áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến, ưu tiên áp dụng công nghệ mới, thân thiện với môi trường, dễ thi công, sử dụng được nhiều lần, giá cả phải chăng, kết hợp với các giải pháp truyền thống. Quản lý hiệu quả tài nguyên nước, giảm thiểu các yếu tố gây sạt lở bờ biển, bờ sông.
Ông Nguyễn Huỳnh Trung, Chánh Văn phòng Ban Chỉ huy Phòng chống thiên tai, Tìm kiếm cứu nạn và Dân quân tự vệ tỉnh Kiên Giang cho biết, theo dự án trên, cần đầu tư xây dựng tổng cộng 200 phòng, chống. điều khiển hoạt động. sạt lở bờ biển, bờ sông, trong đó có 18 công trình phòng, chống sạt lở bờ biển và 182 công trình phòng, chống sạt lở bờ sông. Tổng nhu cầu kinh phí là 17.406 tỷ đồng, trong đó đề nghị của Trung ương là 17.345 tỷ đồng và nhu cầu vốn dự kiến từ ngân sách tỉnh là 61 tỷ đồng.
Giai đoạn 2021-2025 sẽ thực hiện 90 dự án, trong đó có 18 dự án phòng, chống sạt lở bờ biển, kinh phí 2.450 tỷ đồng và 72 dự án phòng, chống sạt lở bờ sông, kinh phí 7.958 tỷ đồng. đồng. Tổng nhu cầu kinh phí là 10,469 tỷ đồng, trong đó đề xuất Trung ương hỗ trợ 10,408 tỷ đồng, còn lại là ngân sách tỉnh. Trong giai đoạn 2026-2030, tổng số công trình phòng, chống sạt lở bờ sông là 110 công trình, với nhu cầu kinh phí xây dựng là 6.937 tỷ đồng và đề nghị Trung ương hỗ trợ toàn bộ.
Theo ông Trung, để chủ động phòng chống sạt lở, khi lập, phê duyệt quy hoạch, kế hoạch phát triển của các ngành, địa phương, nhất là xây dựng các khu đô thị, khu dân cư, khu công nghiệp, dịch vụ, hạ tầng ven sông, ven biển phải đề phòng nguy cơ sạt lở. Khi xảy ra sạt lở cần tập trung ứng phó, khắc phục kịp thời, hiệu quả, hạn chế thấp nhất thiệt hại.
Chủ động quản lý, phòng, chống sạt lở bờ biển, bờ sông, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế, xã hội ổn định và phát triển, góp phần bảo đảm an toàn tính mạng, tài sản và sản xuất của nhân dân. Phát huy hiệu quả đầu tư các công trình phòng chống sạt lở trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
Phấn đấu đến năm 2025, hoàn thành xử lý sạt lở các khu vực trọng điểm, xung yếu, ảnh hưởng trực tiếp đến các khu dân cư tập trung, hệ thống đê điều, cơ sở hạ tầng thiết yếu vùng ven sông, ven biển.
Riêng công trình phòng, chống sạt lở bờ biển, phấn đấu thực hiện đạt 90% dự án đầu tư đã đề ra. Đối với các công trình phòng, chống sạt lở bờ sông, phấn đấu hoàn thành xử lý các khu vực sạt lở đặc biệt nguy hiểm. Đến năm 2030, các khu vực sạt lở nguy hiểm khu vực bãi sông trên địa bàn tỉnh Kiên Giang sẽ được xử lý cơ bản bằng các giải pháp công trình.
Quản lý chặt chẽ việc xây dựng các dự án nhà ở ven sông, ven biển, chủ động bố trí lại dân cư, di dời dân cư ra khỏi vùng có nguy cơ sạt lở bờ biển, bờ sông. Phấn đấu đến năm 2030, hoàn thành 90% việc di dời các hộ dân ra khỏi vùng có nguy cơ sạt lở cao.
Kiểm soát chặt chẽ việc khai thác đất, cát trên sông và ven biển, hải đảo, khắc phục tình trạng mất cân bằng bùn cát để hạn chế nguy cơ sạt lở, ngăn chặn triệt để tình trạng khai thác đất, cát trái phép. , không có quyền. Đồng thời, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật về xây dựng, công trình thủy lợi trong hành lang bảo vệ nguồn nước. Quản lý, kiểm soát hoạt động của các phương tiện giao thông đường thủy nhằm giảm thiểu tác động của sạt lở, nhất là đối với các tuyến kênh, rạch.