Ngoài ra, hồ Dầu Tiếng còn góp phần rất lớn trong việc giảm lũ, đẩy mặn cho hạ lưu sông Sài Gòn. Tuy nhiên, với lượng nước rất lớn, hồ Dầu Tiếng cũng được thiết kế với công suất xả tràn lớn nhất lên tới 2.800m3 / s. Trong khi hướng xả nước duy nhất của hồ Dầu Tiếng là sông Sài Gòn, khả năng thoát nước của tuyến sông này ở vùng thượng lưu chưa đạt yêu cầu.
Theo Công ty Dầu Tiếng – Phước Hòa, trong mấy chục năm vận hành, hồ Dầu Tiếng mới 3 lần phải xả với quy mô chưa đầy 1/4 lượng nước so với thiết kế. Trong đó, năm 1986 xả tràn với lưu lượng 538 m3 / s, năm 2000 là 600 m3 / s và năm 2008 là 400 m3 / s. Tuy nhiên, theo thông tin từ các địa phương như TP.HCM, Bình Dương, đợt lũ này đã gây ngập nhiều nơi.
Công ty Dầu Tiếng – Phước Hòa cũng đã xây dựng và tính toán các kịch bản tràn. Đặc biệt, chỉ cần hồ Dầu Tiếng xả tràn 2.000m3 / s thì rất nhiều vùng của 4 địa phương là Tây Ninh, Bình Dương, Long An và TP.HCM sẽ chìm trong biển nước.
Mặc dù hồ Dầu Tiếng chỉ có một tuyến xả lũ là sông Sài Gòn nhưng theo kết quả nghiên cứu của Viện Khoa học Thủy lợi Miền Nam, khả năng xả lũ của sông Sài Gòn từ đoạn ngay sau đập đến cầu Bến Củi, khoảng 30 dặm. Đập hồ Dầu Tiếng dài 8km do mặt cắt sông hẹp, cạn nên khả năng xả lũ chỉ khoảng 200 m3 / s. Từ đó xuống đến Bến Súc, ranh giới giữa TP.HCM và tỉnh Tây Ninh, khả năng xả lũ của sông chỉ khoảng 500 m3 / s. Sông Sài Gòn từ hồ Dầu Tiếng đến ngã ba Đèn Đỏ về chế độ thủy văn có thể chia làm 3 đoạn, đoạn sông bị ảnh hưởng lũ có chiều dài khoảng 65km kéo dài từ chân đập đến Bến Đình. Đoạn từ ngã ba Vàm Thuật, cách đập Dầu Tiếng khoảng 110km đến cửa sông, chịu tác động mạnh của thủy triều Biển Đông. Đoạn từ Bến Đình đến ngã ba sông Vàm Thuật dài khoảng 45 km cũng chịu ảnh hưởng của cả triều cường và lũ. Việc hồ Dầu Tiếng xả lũ ảnh hưởng đến việc dâng mực nước trên sông Sài Gòn. Vì vậy, khi xảy ra lũ tương ứng với tần suất thiết kế thì việc ngập lụt nghiêm trọng ở hạ du là không thể tránh khỏi.
Từ thực tế trên, nhằm hạn chế rủi ro do xả lũ và sự cố hồ Dầu Tiếng cũng như hỗ trợ chính quyền các cấp, cơ quan quản lý ứng phó với các tình huống khẩn cấp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã và đang xây dựng các phương án. và các phương án ứng phó khẩn cấp vùng hạ lưu sông Sài Gòn. Để hạn chế tình trạng ngập úng do mưa lũ, các khu vực ven sông Sài Gòn thượng nguồn trên địa bàn TP.HCM và tỉnh Bình Dương đã và đang tiến hành đắp đê ven sông. Khu vực trung tâm TP.HCM cũng đã và đang xây dựng các công trình ngăn triều cường.
Tuy nhiên, theo Công ty Dầu Tiếng – Phước Hòa, để giải quyết căn cơ vấn đề xả lũ hồ Dầu Tiếng đảm bảo an toàn tuyệt đối cho công trình và cho hạ du, cần xem xét tất cả các nhóm công trình và phi công trình. các giải pháp. sự thi công. Đặc biệt, công ty đề xuất một số giải pháp cho dự án như đầu tư bổ sung đập tràn cho hồ Dầu Tiếng để đảm bảo an toàn tuyệt đối cho công trình cấp đặc biệt quan trọng này. Cần có dự án, chương trình, kế hoạch nạo vét sông Sài Gòn đoạn từ cầu Sài Gòn đến cầu Bến Súc nhằm tăng cường khả năng thoát lũ của hồ Dầu Tiếng, đảm bảo an toàn công trình đầu mối và vùng hạ du sông. . Sài gòn. Ngoài ra, để đảm bảo vận hành công trình theo nhiệm vụ thiết kế của công trình cấp đặc biệt và theo Quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Đồng Nai, cần có giải pháp nâng tầng cao của toàn bộ đập. chính và phụ nhằm đảm bảo thực hiện an toàn nhiệm vụ điều tiết lũ cho công trình và hạ du.
Ông Nguyễn Đức Vũ, Chi cục trưởng Chi cục Thủy lợi – Chánh Văn phòng Ban Chỉ huy Phòng chống thiên tai – Tìm kiếm cứu nạn TP.HCM, thừa nhận từ khi xây dựng hồ thủy điện Trị An, hồ thủy lợi Dầu. Tiêng phía thượng nguồn, TP.HCM đang chịu ảnh hưởng nặng nề do việc điều tiết mực nước tại các hồ chứa này. Đặc biệt với hồ Dầu Tiếng trong việc xả lũ vào những tháng cao điểm của mùa mưa lũ. Để đối phó với tình trạng ngập do mưa, lũ, triều cường đang diễn ra ngày càng bất thường, cách đây 14 năm, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch tổng thể thủy lợi chống ngập úng TP.HCM. Quy hoạch 1547) nhưng phải 8 năm sau khi Quy hoạch 1547 đi vào cuộc sống, Dự án xử lý ngập do triều khu vực TP.HCM có xét đến yếu tố biến đổi khí hậu – giai đoạn 1 (Dự án chắn triều) mới được khởi công.
Đây là một trong những dự án trọng điểm của TP.HCM khi phạm vi ảnh hưởng của dự án có diện tích rộng tới 570 km vuông bên hữu ngạn sông Sài Gòn và khu vực trung tâm thành phố, nơi có khoảng 6,5 triệu dân sinh sống. Để đạt mục tiêu giảm ngập, dự án được triển khai trên địa bàn các quận 1, 4, 7, 8, huyện Nhà Bè và Bình Chánh với 6 cống ngăn triều lớn, rộng 40-160m là cống Tân Thuận và cống Bến. Nghè, Phú Xuân, Mương Chuối, Cây Khô, Phú Định với 2 cống vừa và 12 cống nhỏ. Đồng thời, tuyến đê dài 7,8 km dọc sông Sài Gòn từ Vàm Thuật đến Sông Kinh cũng sẽ được xây dựng. Khi dự án đi vào hoạt động, các van cống sẽ được điều khiển bởi hệ thống SCADA để tự động đóng lại khi triều cường không để triều cường tràn vào các kênh chính gây ngập úng khu vực kiểm soát. Ngược lại, khi thủy triều trên sông rút, cống sẽ mở ra để hạ mực nước kênh rạch. Căn cứ vào dự báo thời tiết, mực nước kênh rút cạn, sau đó sẽ đóng nắp van cống để biến kênh thành nơi chứa nước mưa tạm thời trước những trận mưa lớn. Dự án cũng xây dựng các trạm bơm công suất lớn, cống Bến Nghé công suất 12 m3 / s, cống Tân Thuận công suất 48 m3 / s và trạm bơm tại cống Phú Định công suất 36 m3 / s. Khi triều cường xảy ra mưa lớn, các van cống đóng lại, các máy bơm này sẽ hoạt động để bơm nước mưa từ kênh ra sông. Đồng thời, việc vận hành cống ngăn triều không ảnh hưởng đến hàng hải do tàu được đảm bảo qua lại bình thường khi cống mở và qua âu thuyền khi cống đóng.
Vì vậy, khi công trình chống ngập này được khởi công xây dựng, hàng triệu người dân thành phố đã háo hức chờ đợi. Đến nay, công trình chống ngập quy mô lớn này đã kéo dài sang năm thứ 7 nhưng chưa cơ quan nào dám chắc khi nào hoàn thành. Trong khi đó, hệ thống đê bao ngăn triều của thành phố hầu hết đã xuống cấp hoặc chưa được xây dựng. Hệ thống kênh với khoảng 2.953 tuyến, tổng chiều dài khoảng 4.371km, trong đó nhiều kênh chính chưa được nạo vét, xây dựng để kiểm soát triều.