1.
Hai mươi năm đầu thế kỷ XXI, tuy không phải là thời gian dài nhưng đã chứng kiến sự trỗi dậy mạnh mẽ của dòng văn học về biển, đảo.
Sự xuất hiện của internet và các phương tiện truyền thông ngày càng hiện đại và đa dạng khiến cho việc tiếp nhận một tác phẩm văn học, hiện nay, trở nên dễ dàng và nhanh chóng. Trường hợp bài thơ “Tổ quốc nhìn từ biển” (đăng lần đầu trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội tháng 5/2011 nhưng chỉ thực sự gây chú ý khi lan truyền trên mạng) của Nguyễn Việt Chiến hay hàng nghìn bài thơ. được đăng tải khắp mạng xã hội năm 2014 là những ví dụ sinh động cho thấy, với điều kiện truyền thông hiện đại, không nơi nào có thể rơi vào vòng xoáy của sự im lặng, nhất là trước những vấn đề liên quan đến thổ cẩm. kích thước. Vì vậy, văn học về biển, đảo đã được các phương tiện phát hành phi truyền thống hỗ trợ đắc lực.
Tuy nhiên, sẽ không phải là cao trào nếu biển đảo không phải là điểm nóng trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước trong khu vực. Tranh chấp, xung đột trên Biển Đông và các vấn đề Trường Sa, Hoàng Sa không chỉ là sự kiện chính trị, xã hội thuần túy mà còn là “sự kiện linh hồn” thường trực, luôn có tác động lớn đến giới văn học. họa sĩ. Vì vậy, mỗi khi biển Đông dâng cao, văn đàn lại xuất hiện một số lượng lớn tác giả, tác phẩm “tâm sự”, “thổ lộ” về một phần máu thịt của Tổ quốc.
Ví dụ, khi Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan HD981 trong vùng biển Việt Nam vào tháng 5/2014, ngay lập tức, các diễn đàn nghệ thuật đều đồng loạt phản đối và đăng tải các tác phẩm của mình một cách nhiệt tình. biển đảo quê hương. Chưa bao giờ biển đảo lại thuộc về tự cảm của người viết như lúc này. Và chưa bao giờ việc sáng tác biển đảo lại trở nên cần thiết, thậm chí là nhiệm vụ cao cả mà các nhà văn phải thực hiện như trong vài năm trở lại đây.
2.
Nhìn chung, thành tựu văn học về biển, đảo chủ yếu nằm ở thể loại văn (truyện) tiểu thuyết và thơ. Số lượng tác phẩm viết về biển, đảo chiếm hầu hết trên các báo, tạp chí văn học nghệ thuật. Trong hàng trăm bút ký ấy, có thể kể đến một số tác phẩm đặc sắc: “Trường Sa tháng tư năm hai nghìn” của Lê Thanh Nghị; “Hành trình một chiều” của Khuất Quang Thụy; “Bão tố Trường Sa” của Nguyên Bảo; “Trường Sa, mai vàng mùa gió chướng” của Nguyễn Đình Tú; “Hồn thiêng sóng nước Hoàng Sa” của Lê Mạnh Thường; “Tiếng xuân từ trái tim người lính biển” của Nguyễn Mạnh Hùng; “Thổ Châu, xa mà gần” của Nguyễn Tiến Vinh; “Tháng năm ở Trường Sa” của Phạm Duy Nghĩa; “Sóng không chỉ có trong bão” của Hồ Anh Mão; “Tôi đặt tên cho các con tôi là Hải và Quân” của Phan Văn Quý; “Cô Lin, đảo tiền nhỏ” của Trịnh Xuân Tộ; “Lỡ hẹn với mùa xuân” của Vũ Đình Sáng; “Xa Trường Sa” của Đỗ Hoàng; “Chuyện kỳ thú ở quần đảo Trường Sa” của Sương Nguyệt Minh; “Quê hương” của Lưu Thị Bạch Liễu, “Hẹn gặp mùa xuân” của Bùi Doanh …
Ở đơn vị tập, nổi bật và được tái bản nhiều lần là Đảo chìm (2000), một thể loại “truyện kể” liên hoàn của Trần Đăng Khoa. Có thể kể đến một số tập bút ký khác, xen lẫn truyện ngắn, sưu tầm từ nhiều mốc thời gian sáng tác, có thể kể đến: Sóng từ biển (2009) của Phạm Nam Giang, Những đứa con của biển (2011) của Đặng Kim Quy, Đi qua Gạc Ma đến đảo Sinh Tồn (2014) của Lê Hoài Nam…
Ra đời từ những chuyến đi thực tế, những bài ký, câu chuyện chứa đựng nhiều chi tiết cụ thể, xúc động về biển, về người lính và những nét đẹp về tình người, tình quê hương, gắn bó. giữa đất liền, quê hương, đất liền vùng biển cả. Xu hướng “tả thực” và đan xen chất trữ tình – chính trị là nét chính trong hầu hết các tác phẩm, truyện kể trên.
Hiện thực ở đây gần như tái hiện lại những gì bạn đã thấy, đã nghe về cuộc sống của những người lính trên các đảo với tên gọi, tọa độ chính xác, với những nhân vật có thật liên quan đến công việc hàng ngày, trực tiếp. trên hòn đảo nơi người viết có thể gặp gỡ, trò chuyện hoặc “ghi lại từ câu chuyện”. Cứ như vậy, độc giả lần lượt được xem những bức ảnh cận cảnh Đà Lạt, Nam Yết, Trường Sa Lớn, Đá Tây, Trường Sa Đông, Đá Đông, Phan Vinh, Tiên Nữ, Tốc Tan, An Bàng, Ba Kè hay DK1 nhà giàn – trạm dịch vụ khoa học kỹ thuật trên thềm lục địa … Một phần máu thịt của đất nước, trong bức phác họa rất chi tiết, trong trạng thái phấn khởi được khám phá, được thể hiện cụ thể xuống cội nguồn lai căng của nó. Lịch sử của mỗi hòn đảo và những con người thực được “lịch sử hóa”.
3.
Thơ ca, sử thi cũng là thể loại ghi dấu ấn thành công khi viết về biển đảo. Nhiều bài thơ đã thực sự “làm dậy sóng” khi xuất hiện vào thời điểm biển Đông sôi sục. Chẳng hạn như trường hợp “Tổ quốc nhìn từ biển”, “Tổ quốc nhìn biển” của Nguyễn Việt Chiến, “Thềm lục địa hào phóng”, “Tòa án biển Đông” của Nguyễn Thanh Mừng, “Mặt trời trong nhà” đầy gió. và sóng “và” Tiếng chuông chùa giữa đại dương xanh “của Phan Hoàng,” Mộ gió và Khát vọng Hoàng Sa “của Trịnh Công Lộc,” Tổ quốc ba nghìn cây số biển “của Nguyễn Ngọc Phú, “Nghe con hát Trường Sa” của Ngô Minh, “Biển Việt” của Đỗ Trọng Khôi, “Tổ quốc gọi tên” của Nguyễn Phan Quế Mai, “Gió có nhà giàn” của Nguyễn Quang Hưng …
Tuy số lượng sử thi ít hơn nhưng cũng đã tạo được tiếng vang nhất định, như “Trường Sa ơi Trường Sa” của Lưu Thị Bạch Liễu, “Tiếng biển” của Lưu Đình Hùng, “Tổ quốc – Chân trời” của Lưu Thi Bạch Liêu. Nguyễn Trọng Văn, “Người đứng sau sóng” của Lê Thị Mây, “Nằm mơ” của Nguyễn Hữu Quý …
Nhìn chung, “thơ biển, đảo” trước hết là một thái độ chính trị được trữ tình hóa thông qua những hình tượng nghệ thuật có khả năng thể hiện tư tưởng của nhà văn về đất nước, chủ quyền và tinh thần bảo vệ biển, đảo. . Những hình ảnh dân quân, chiến sĩ, thành lũy, biên cương, đất mẹ – Tổ quốc … xuất hiện với tần suất dày đặc như một cách tạo nên sự gắn kết, đối đáp liên tục giữa đất liền với biển, giữa người và đảo, giữa truyền thống và hiện tại.
Hầu hết các bài thơ đều có âm điệu hào sảng, khỏe khoắn, giàu chất thơ, chất sử thi nhờ sử dụng lại những câu chuyện lịch sử, truyền thuyết và đặc biệt là sự kiện đánh giặc ngoại xâm trên non sông Việt Nam. Bố của anh ấy. Nhưng biển đảo cũng gắn liền với đau thương, mất mát, hy sinh.
Bài thơ Mộ gió của Trịnh Công Lộc với những câu thơ ngắn gọn, dồn nén, chân thực và đầy ám ảnh đã tạo nên một tượng đài ghi lại sự hy sinh của những chiến sĩ – chiến sĩ nơi đầu sóng ngọn gió:
Đây là nấm mồ của gió,
những khoảnh khắc của biển lặng
Gió là bàn tay ôm bến bờ xa.
Chạm vào gió giống như chạm vào da thịt
chạm
chua cay
Hoàng Sa…
Giữa hào hùng và trữ tình, biển đảo còn là không gian của cảm xúc lãng mạn, của tình yêu tuổi trẻ, của sự bình yên sau những ngày giông bão. Nguyễn Thành Phong nhìn nhận “Gót hồng trên biển”, tức là những người phụ nữ ra quân Trường Sa, không phân biệt thân phận, là vợ, người yêu hay đơn giản chỉ là một diễn viên. họ “Mang nỗi nhớ, trong lành, dịu dàng / Những đứa trẻ thỏa lòng mong nhớ đất liền / Hòn đá mềm dưới bước chân cô gái / Dải san hô muốn hóa thành bãi biển / Cát mặn muốn trồng cây ăn trái / Đảo đá sẽ xanh, những đảo đá sẽ vững bền mãi mãi.
Lê Thị Mây lại tưởng tượng mình trong một hình ảnh rất nhỏ bé, khiêm tốn nhưng gợi không khí thân quen ấm áp: “Cửa biển như tiếng kèn và âm ỉ cháy. Ước gì là người xới xáo trong bếp tàu. Cối xay đốt lửa nhóm lửa cho những ngày ngăn đầy cá Biển có chân trời nâng bát cơm ăn ”(Người đứng sau sóng).
Tuy nhiên, so với thơ biển đảo giai đoạn trước thì ở giai đoạn này chất trữ tình, lãng mạn ít được khai thác; Lòng tự trọng và tâm trạng cũng có dấu hiệu giảm sút.
4.
Có thể nói, văn học về biển đảo thực chất là sự hồi sinh, tái sinh của văn học yêu nước vốn rất sôi nổi và có nhiều thành tựu trong lịch sử văn học Việt Nam. Việc dùng ngòi bút để thể hiện lòng yêu nước, chí khí hay lòng dân tộc tuy không còn quá mới mẻ nhưng nó luôn gây được thiện cảm lớn, sự hưởng ứng tự nhiên trong tâm trí mỗi người.
Nói rộng ra, văn học về biển, đảo cũng là sự thay đổi về góc nhìn: chuyển từ miêu tả những câu chuyện, đồng bằng / phong cảnh (gắn với văn hóa nông nghiệp đề cao sự trù phú, trù phú, thanh bình) sang miêu tả biển, đảo / đại dương (gắn với văn hóa giao dịch, phát huy tính năng động, linh hoạt để đối phó với mọi tình huống phi truyền thống). Theo tôi, đóng góp quan trọng này là đánh thức những quan điểm mới mẻ, khác biệt về lãnh thổ và bản sắc dân tộc mà lâu nay người ta cho là vững chắc, mặc định.