Để làm ra chiếc bánh chưng đen nổi tiếng của người dân Văn Bàn không phải là việc dễ dàng. Người làm bánh phải rất tỉ mỉ và khéo léo mới cho ra được chiếc bánh thành phẩm màu đen lạ mắt, có mùi thơm của gạo nếp kết hợp với vị đậm đà của đậu xanh và thịt mỡ, cùng chút cay cay của tiêu.
Những nguyên liệu quen thuộc để làm bánh tét tương tự như cách làm bánh chưng dưới đây. Tuy nhiên, loại gạo nếp được chọn phải là loại gạo nếp Thẩm Dương dẻo, trắng và thơm ngon – loại gạo đặc sản của Văn Bàn. Màu đen đặc trưng của bánh được người Tày sử dụng từ cây núc nác, một loại cây dễ sống, mọc hoang trong rừng, thậm chí ven đường. Những thân, cành cây được phân loại riêng, người Tày thường để trên gác bếp cho khô, khi cần thì mang xuống. Lá dong cũng được người dân trong rừng hái về. Về phần thịt lợn để làm nhân là thịt lợn đen được nuôi tại làng, thơm, nhiều mỡ, được tẩm ướp gia vị, tiêu, ớt bột cho ngấm. Ngoài ra, bánh còn có nhân đậu xanh được làm chín.
Quy trình chế biến cây núc nác khá cầu kỳ bởi khâu đốt than và sàng bột than sẽ quyết định sự thành công của bánh. Thân và cành cây sẽ được tước bỏ vỏ, đốt thành than, giã mịn như bột rồi vò nhiều lần cho thật mịn.
Gạo nếp ở Thẩm Dương được chọn phải là loại ngon nhất, vo tròn, vo kỹ, cùng với một chút muối tinh. Khi trộn bột nếp với gạo, người làm bánh cần đảo liên tục, sau đó cho hai nguyên liệu vào cối và giã một lần nữa để bột dính vào nhau. Bạn có thể kiểm tra gạo đã “lên màu” hay chưa bằng cách dùng đầu ngón tay bóp hạt gạo, thấy gạo đã quyện chặt với bột than thành màu đen tuyền là được.
Sau khi lấy lá khổ qua rừng về lau và rửa sạch. Nếu lá to, mỗi chiếc bánh chỉ cần gói bằng lá dong. Với loại lá nhỏ, người ta thường dùng hai lá. Khi trải lá dong, cần lưu ý lấy mặt xanh của lá dong ra mặt ngoài để sau khi tráng bánh, màu sắc của bánh được đẹp mắt hơn.
Tiếp theo, lớp cơm đầu tiên sẽ là hai phần thịt làm nhân, sau đó đến lớp nhân đậu xanh vàng. Cuối cùng bạn cho một lớp gạo lên trên để phủ kín hoàn toàn phần nhân đậu xanh, không để đậu xanh bị bung ra. Ở công đoạn cuốn bánh, người phụ trách phải cầm hai bên lá dong để cuộn khéo léo sao cho bánh ở giữa, dùng muôi cố định theo chiều ngang và dùng muôi buộc cố định lại. theo chiều dọc. bánh.
Kích thước của bánh tùy thuộc vào ý định của người gói bánh và thói quen của từng gia đình. Nếu bánh lớn thường có chiều dài là 30cm, chiều rộng là 6cm. Nếu bánh nhỏ, người làm có thể kẹp hai bánh cùng lúc, sau đó buộc lại và cho vào nồi luộc chín. Trước khi luộc, bánh được ngâm qua nước lạnh một lần, cho vào nồi, đổ ngập nước cho ngập lá. Thường thì Bánh Chưng sẽ được nấu trong khoảng 10 – 12 tiếng. Vì tro của cây núc nác có tác dụng khử mùi chua và tính nóng của cơm nếp, ưu điểm của bánh chưng đen là có thời gian bảo quản lâu hơn các loại bánh chưng khác, có thể để được từ 7 đến 10 cái. ngày trong điều kiện tồi tệ. thời tiết mùa đông và 3 đến 5 ngày trong điều kiện mùa hè
Khi thưởng thức, người ăn lấy chính sợi cơm gói quanh thân bánh để cắt thành từng khoanh. Một chiếc bánh “đạt chuẩn” khi nhìn từ bên ngoài có lớp gạo đen bóng, nhân đậu vàng ươm xen lẫn màu sắc hấp dẫn của thịt mỡ bên trong. Chỉ nhìn thôi, thực khách đã đủ ngây ngất và như bị mê hoặc bởi đặc sản vùng cao
Trước đây, bánh Chưng đen chỉ được người Tày làm trong các dịp lễ, Tết quan trọng như Tết Nguyên đán, Tết Thanh minh … Tuy nhiên, ngày nay, món bánh này được phục vụ nhu cầu thưởng thức hàng ngày của người dân và khách thập phương. du lịch nên bán rộng rãi trên mạng xã hội hoặc các hội chợ giới thiệu sản phẩm của tỉnh Lào Cai… Chất lượng làm nên thương hiệu, không cần quảng bá, nay bánh chưng đen Văn Bàn đã được lên kệ. ký một nhãn hiệu, trở thành một sản phẩm
OCOP (mỗi xã một sản phẩm) 3 sao cấp tỉnh.