(TN&MT) – Được cất lên, cao, xa, rõ ràng ở âm giai A trưởng, lời bài hát bắt đầu từ một câu hỏi: “Tháng 8 lá thu bắt đầu ngả vàng?”.
Tháng 8 mùa thu lá đã ngả vàng chưa? Câu nói ấy, dường như không có đối tượng, không biết hỏi ai, hỏi ai, nhưng chẳng khác nào tự vấn chính mình, về một nơi thân quen đã xa, rằng không biết nơi ấy từ bậc “người đi”, lá đã bắt. vàng. chưa? Ngay sau câu hỏi ấy, người nhạc sĩ chợt nhận ra mình đang độc thoại nên câu thơ tiếp theo chợt ngân lên bất chợt, trầm ngâm: “Từ lòng người tang tóc, thầm thương nhớ”.
Mùa thu tháng 8
lá vàng chưa?
Từ cấp độ người đi yêu thầm
Em là mùa thu Hà Nội?
Tuổi gió sương em cũng cố tìm
Em có phải là mùa thu xưa không
Như chúng ta đã nghe, không khó để nhận ra có một cô gái trong bài hát bởi tựa đề rất rõ ràng “Em có phải mùa thu Hà Nội”. Trước đây, người ta ít dùng cú pháp khẳng định để đặt tên cho tác phẩm nghệ thuật, nhưng đối với nhạc sĩ Trần Quang Lộc và nhà thơ Tô Như Châu (tác giả thơ), kỹ thuật nghệ thuật đó không chỉ là mở đầu mà còn là toàn bộ bài hát, lặp đi lặp lại với nhiều sắc thái và mức độ khác nhau. Có điều gì đó không ổn với sự thay đổi tâm trạng. Bởi nếu lắng nghe, bạn sẽ thấy mình rơi vào cảm giác “nỗi nhớ thầm lặng”, thì ngay lập tức, cao độ của câu thơ tiếp theo lại trỗi dậy: “Em có phải mùa thu Hà Nội / Tuổi sương mai em vẫn cố tìm”.
Chắp cánh phổ nhạc cho một bài thơ về Hà Nội vốn đã rất hay của Tô Như Châu, nhưng việc biến tâm trạng êm đềm của bài thơ trở nên lạc lõng qua tiếng đàn là một thành công đáng khen ngợi của nhạc sĩ Trần Quang Lộc. Người nghe khi bị tra khảo, có khi lặng đi trong nỗi nhớ, khi khắc khoải chờ câu trả lời, khi bình thản trở lại với chính mình với lời thì thầm khao khát: “Ôi mùa thu mộng mơ”.
Mùa thu Hà Nội trong ký ức của những người xa Hà Nội có lẽ đều có những điểm chung để nhớ, lá vàng rơi lả tả dọc phố, sương như khói mênh mang Dâm Đàm Lãng Bạc, vẻ đẹp buồn ấy chỉ có thể là Hà Nội, làm nao lòng người xa xứ. day dứt và khôn nguôi với ý nghĩ một ngày sẽ trở về.
Như vậy, theo suy luận của ngôn từ đặt ra trên cán bộ, người nghe hiểu rằng có một mùa thu Hà Nội trong nỗi nhớ của người nhạc sĩ, có thể người nhạc sĩ đó chính là “người đi” được nhắc đến trong bài hát. Và người em trong bài hát ấy có phải là mùa thu như tác giả đã từng hỏi. Năm tháng đã trôi qua kể từ khi bài hát ra đời, nhà thơ Tô Như Châu và nhạc sĩ Trần Quang Lộc cũng đã về trời, và cô gái trong bài hát mãi mãi là người dưng. Trước khi nhà thơ Tô Như Châu từng trải lòng rằng, bài thơ “Có phải em mùa thu Hà Nội” được ông sáng tác vào tháng 8 năm 1970, khi đó, ông 36 tuổi. Trên con phố nơi anh sống, có những gia đình từ Hà Nội vào sơ tán sinh sống. Đôi khi, anh bắt gặp một bóng dáng thướt tha dưới nắng Thừa Thiên, cả giọng hát nhẹ như gió thoảng trong âm hưởng ngọt ngào của xứ Huế, Rồi có những đêm khuya, tiếng đàn thánh thót tràn vào không gian nỗi nhớ, nỗi buồn, và sự lo lắng thầm lặng, anh như đọc được cái chất Hà Thành ẩn chứa trong những gương mặt xa quê. Và bài thơ đã thành hình.
Thơ Tô Như Châu trải dài, trải dài như con phố heo hút gió thu chạy dài, chậm rãi như Cổ Ngư, nhưng khi gặp Trần Quang Lộc, nhạc sĩ chắt lọc ý tưởng, sắp xếp lại một số ca từ, để câu hát. . bỗng trở thành một bí ẩn thú vị. Bài hát được chuyển nhạc vào năm 1972 khi hai tâm hồn đồng điệu gặp nhau và được ca sĩ Thái Thanh trình diễn lần đầu tiên. Ngay sau đó, bài hát lập tức bị cấm vì cho rằng “thân Bắc”, “hơi cộng sản”. Hai mươi năm sau, khi Tô Như Châu đang sáng tác khi rời tòa soạn, trên đài phát thanh đã nghe thấy những lời quen thuộc trong thơ ông qua bài hát “Có phải em mùa thu Hà Nội”:
Có bóng mùa thu đánh thức em mùa sau.
Một ngày trở lại thăm Thăng Long buồn
Em là mùa thu Hà Nội?
Vào mùa thu, tôi nằm xuống chiếc lá trên giường của bạn
Nơi phương trời xa sương tóc bay.
Đúng, như trong hồi ức của Tô Như Châu, những người em trong thơ anh đều là những cô gái có hình dáng, nhưng so với ca từ trong bài hát thì có lẽ không phải như vậy. Chút hình ảnh chỉ là sự ví von mà nhạc sĩ Trần Quang Lộc muốn làm mờ lời thoại để thi vị hóa. Có gì đó lắng đọng trong tim, nén trong lồng ngực, bật ra sau từ ‘thức giấc’. “Một bóng mùa thu đánh thức ta trong mùa / Một ngày ta về thăm Thăng Long buồn”liên kết với lời bài hát trong khổ thơ đầu tiên “Tuổi gió sương em cũng cố tìm“. Đôi khi, người ta vẫn nhầm khi hát là” nhắc nhở “, sự nhầm lẫn đó vô tình làm giảm giá trị của bài hát.” Nhắc “là khi người ta đã quên, nhưng” tỉnh lại “thì không, chỉ là tạm thời bị dập tắt vì một lý do nào đó.
Mùa thu Hà Nội hiện lên trong bài hát đẹp như một thiếu nữ Hà Nội bồng bềnh trên thảm vàng, mái tóc sương khói, đôi môi mềm như khói, những chiếc lá ướt này xanh mướt … Khó hình dung vẽ ra những đường nét nữ. vẻ đẹp hư ảo đó. Bức tranh mà nhạc sĩ Trần Quang Lộc vẽ ra mà người nghe cảm nhận được tất cả chỉ là trong trí tưởng tượng, những giọt nước mắt mừng vì đoàn tụ chỉ là mơ, trong đó có một chi tiết rất thực là tiếng đàn piano: “Có phải mùa thu lá rơi và tiếng đàn gọi / Giọt nước mắt vui khi gặp nhau?”.Nhưng tiếng đàn không phải là hình khối trong bức tranh Hà Nội. Cả nhà thơ và nhạc sĩ, lắng nghe trong tiếng đàn, khát vọng, niềm vui đoàn tụ. Tiếng dương cầm đã hóa sương mù mở đầu bài hát – có lẽ cũng là bài hát khiến nhiều người “xao xuyến” nhất: “Nghe hồn Trưng Vương trên sông Hát”.
Có một số tài liệu giải thích rằng: sở dĩ tác giả gắn “Hồn Trưng Vương” với “sông Hát”, có thể xuất phát từ một chi tiết lịch sử có thật, đó là Hai Bà Trưng tự vẫn ở sông Hát, tức sông Hát. là phụ lưu đầu nguồn, đổ ra sông Nhuệ (Hà Nội). Có lẽ, nhạc sĩ Trần Quang Lộc không quá kín tiếng, cũng như không muốn dẫn dắt câu chuyện dài dòng như vậy. Ý nghĩa sâu xa của nhạc sĩ là khắc họa một mùa thu Hà Nội đẹp đẽ sâu lắng, trong sáng, mong manh, một Hà Nội thủy chung, khí phách trinh nguyên dù trong chiến tranh hay thăng trầm, một Hà Nội là tình yêu, là ước mơ, là hy vọng, là niềm tự hào, là trái tim của cả nước “Ngàn năm sau ta cầm bóng trở lại”. Anh ở đây có thể là nhạc sĩ, có thể là thi sĩ, có thể là bất cứ ai, gửi gắm nỗi lòng của mình vào hồn Thăng Long mơ ngày sum họp vui tươi, gọi tên nhau, cười rưng rưng nước mắt. hạnh phúc “tiếng ồn piano”. Từ đó, trở lại câu thơ: “Từ mức người đi thương thầm”, để thấy rằng “người đi” trong câu thơ không chỉ riêng ai, đó là sự chia ly do chiến tranh, chia ly. Bài hát lấy tình riêng để gửi tình chung, lấy tình tiết để nói về bối cảnh, lấy hình bóng cụ thể để hình dung về một hồn Thăng Long. Và sẽ không ngạc nhiên khi nhạc sĩ Đức Trí “biết mặt” ca khúc trong làng nhạc lập hàng loạt kỷ lục, đó là album có ca khúc bán được 30.000 bản trong một tuần, làm nên tên tuổi cho chính anh. Hồng Nhung và Thu Phương. Năm 1998, “Em có phải mùa thu Hà Nội” đã được giải Nhất của Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam, bài hát được chọn hát trong nhiều chương trình lớn của đất nước, trong đó có chương trình kỷ niệm 1000 năm Thăng Long. Hà Nội muôn năm.
“Em” là ai trong hình bóng mùa thu? Đi đâu để tìm! Cả nhà thơ Tô Như Châu và nhạc sĩ Trần Quang Lộc đều mới thấy Hà Nội qua những giấc mơ. Yêu Hà Nội đến mức làm nên những tác phẩm để đời như vậy, tình yêu ấy khó mà đong đếm được.