Người thừa kế ngai vàng, rực rỡ ngàn thu
Họ Trần Đăng anh hùng vang danh ba cõi.
(Chưng cất)
Ngôi chùa có tên là “Sơn Hải Linh Từ”, tọa lạc tại ngõ 139 phố Chương Dương Độ, phường Chương Dương, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Xưa kia, di tích gắn với địa danh làng Cổ Xá, tổng Tả Túc, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức.
Khu di tích nằm ở cửa ngõ phía Đông sông nước, vùng đất chiến lược lâu đời của Kinh đô Thăng Long. Đền nhìn ra sông Nhị Hà, gần khu vực Bến Đông, tức Đông Bộ Đầu, nơi diễn ra “trận quyết chiến chiến lược” đánh đuổi quân xâm lược Mông – Nguyên lần thứ nhất ra khỏi Thăng Long ngày 29-1-1258. Theo nguồn thư tịch cổ, đền do ngư dân làng Thủy Cơ xây dựng từ thế kỷ 19, di tích được trùng tu, tôn tạo liên tục vào các năm Kỷ Dậu (1969), Giáp Tý (1984). ), trên cơ sở vị trí và khuôn viên cũ, quy mô kiến trúc hiện tại gồm: Nghi môn, sân vườn, khu kiến trúc chính và điện thờ Mẫu được thiết kế theo lối kiến trúc truyền thống.
Đền Sơn Hải thờ Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, vị anh hùng dân tộc đã lãnh đạo quân dân nhà Trần ba lần đánh tan quân Nguyên Mông, bảo vệ Tổ quốc. Ông không chỉ là người tài trí, mưu lược, liêm chính mà còn luôn đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên hàng đầu. Ông đã dốc hết tâm sức viết “Bình thư ký sự”, “Vân Kiều tông bí sử”, “Hịch tướng sĩ” để dạy các tướng lĩnh cầm quân đánh giặc, khích lệ tinh thần yêu nước của quân dân Đại Việt và Mọi người. Quan điểm của Người về tinh thần yêu nước, đoàn kết, thương dân: Trong thời bình, phải lấy sức dân làm nên nền tảng bền lâu, đó là chủ trương hàng đầu để bảo vệ Tổ quốc … ”, luôn là một người tiến bộ. suy nghĩ, sự thật cho mọi thời đại. vĩ đại.
Ngoài đề tài tín ngưỡng thờ Đức thánh Trần Hưng Đạo và đình còn thờ các danh tướng thời Trần như: Phạm Ngũ Lão, Trần Quang Khải, Đỗ Án, Trần Thông, Địa Lôi, Hà Bổng, Hà Chương. , Yết Kiêu và Dã Tượng có công đánh giặc ngoại xâm vào thế kỷ XIII. Trong điện thờ “Trúc Lâm tam tổ” là: Trần Nhân Tông, Huyền Quang Tôn giả và Pháp Loa.
Trần Nhân Tông (1258-1308), hiệu là Trần Khâm, tên chùa là Nhân Tông. Ngài làm vua được 14 năm (1279-1293), đi tu ở núi Yên Tử, hiệu là Trúc Lâm Đại Đầu Đà, người sáng lập ra thiền phái Trúc Lâm trong Phật giáo Việt Nam nên còn được gọi là Trúc Lâm đệ nhất tổ. .
Pháp Loa Tôn Già (1284-1330), hiệu là Đồng Kiên Cương, hiệu là Pháp Loa. Người làng Cửu La (sau là làng Đông Pha, huyện Nam Sách), tỉnh Hải Dương. Năm Hưng Long thứ 12 (1204), lúc bấy giờ Trần Nhân Tông đang xuất gia, hoằng pháp đến điện Nam Sách, gặp Kiến Cương, thấy ông thông minh, liền sai đi học Phật pháp và tu hành theo Phật pháp tại Núi Kỳ Lân. Pháp danh là Pháp Hoa, ban y phục và y bát. Ông là vị tổ thứ hai của Thiền phái Trúc Lâm. Khi vua Trần Nhân Tông băng hà năm 1308, ông cũng ở trên núi Yên Tử.
Huyền Quang Tôn Gia (1254-1334), hiệu là Lý Đạo Tài, bút hiệu là Huyền Quang. Ông quê ở làng Văn Tài, huyện Gia Định (Gia Bình), tỉnh Bắc Ninh. Năm 19 tuổi, ông đỗ Tam khoa dưới triều Trần, làm quan ở triều đình một thời gian rồi về xuất gia ở chùa Quỳnh Lâm, Đông Triều, được sư Pháp Loa rất kính trọng. và vua Trần Nhân Tông. Năm Đại Khánh thứ 4 (1370) trước khi mất, Pháp Loa đã ban áo cà sa và y phục của Điều Ngự Giác Hoàng (tức vua Trần Nhân Tông) và trao lại cho Huyền Quang, và Huyền Quang cũng kế vị làm trụ trì chùa. chùa trên núi Yên Tử, vị tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm.
Cùng thờ cúng ở cánh đồng thần của đền Sơn Hải còn có: Tam Tòa Thánh Mẫu và nhiều vị thánh khác liên quan đến tục thờ Mẫu, một nét sinh hoạt tín ngưỡng bản địa của người Việt.
Ngoài ý nghĩa là di sản kiến trúc tôn giáo, giá trị tiềm ẩn trong đền Sơn Hải còn là các tượng Thánh, tượng Phật, tượng Mẫu và nhiều hiện vật phong phú khác như: hương án, khám, ngai, kiệu… hoành phi, câu đối, cửa võng. cửa cuốn, hoành phi … Đặc biệt, năm Khải Định thứ 9 (1924) đã minh chứng cho sự ra đời sớm của chùa.
Đền đã được dòng họ Trần từ Tức Mặc, Nam Định, Thiên Trường về trông coi từ lâu đời. Dòng họ vạn chài làng Đông Bộ Đầu có các tể tướng: Trần Văn Sáng, Trần Văn Hải Độ, Trần Văn Hai, Trần Văn Sơn… Đầu thế kỷ 20, khi Tây chưa chiếm Hà Thành, 50.000 người đánh cá là rất lớn. bên sông, hàng ngàn người tham dự. 5 chiếc thuyền chở tượng Đức Thánh Trần, kiệu, bát hương, cỗ mặn, cỗ chay, bình yên, bát âm… rẽ sóng Nhị Hà về đền Bồ Đề (Gia Lâm) sau khi cả đám rước trở về, quay 3 lần trên sông, lấy nước trong nhất để cúng Thần, Thánh, Phật, Mẫu quanh năm.
Năm 2010, kỷ niệm nghìn năm Thăng Long – Hà Nội, phường Chương Dương và Đền Bần đã long trọng tổ chức bằng xe ô tô đón Bằng xếp hạng di tích lịch sử văn hóa tại 90 Hàng Bông, Thợ Nhuộm. Xe dừng tại ngã tư Hồng Hà, Chương Dương Độ… Sau đó chuyển sang đoàn rước có đội lân múa rồng, sư tử múa, kiệu rước bát hương, kiệu hoa, bánh trái, và các đoàn khác. các sở, ban, ngành. Đoàn rước linh hoạt đi qua các đường Chương Dương Độ, Bạch Đằng… rồi dừng lại ở Đền Sơn Hải. Có các tham luận của lãnh đạo thành phố, quận, huyện, phường …
Các loại hình văn nghệ phong phú: Hát giá về Cô Bơ, Cô Chín, Ông Hoàng Bảy, Đức Thánh Trần. Có những bài thơ về bến sông Đông Bộ Đầu và các cựu chiến binh hát về Hoàng Sa, Trường Sa, các chiến sĩ Hải quân.
Tôi xin kết thúc bài văn bằng bài thơ của cố nhà thơ Chế Lan Viên.
Đất nước có bao giờ đẹp thế này không?
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều thì nước biến thành VĂN….
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi ra cửa Bắc.
Hưng Đạo Vương đánh tan quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng
Tác giả: Văn Hậu – Hội Văn hóa dân gian Hà Nội
…
NGƯỜI GIỚI THIỆU
1. Tri Tân (số Hưng Đạo Đại Vương)
3-10-1941 Trung tâm UNESCO Hà Nội 2000
2. Lịch sử Việt Nam – NXB Khoa học xã hội 1971
3. Sơn Hải Temple YOUTUBE Miss Tam 2010
4. Lễ hội Thăng Long – Hà Nội. PGS. GS Lê Trung Vũ CB… NXB TN 2011
5. Trận chiến miền Đông Việt Nam Đặng Việt Thụy 2018
6. Bài điền dã ở Đền Sơn Hải do ông Vị (84 tuổi), ông Ba (72 tuổi), cụ Trần Văn Sơn… (khu Cầu Đất cũ) ghi lại.
7. Chú thích:
Bến Đông Bộ Đầu ??? Theo sách báo đã xuất bản, bến đò ở dốc Hàng Than gần cầu Long Biên, có người cho rằng từ dốc Hàng Than đến Ô Tây Lương (gần Nhà hát lớn Hà Nội …). Ngày 24 tháng Chạp (21/1/1258) năm Nguyên Phong thứ 7, một trận thủy chiến ác liệt đã diễn ra giải phóng kinh thành Thăng Long. Qua khảo sát tại Đền Sơn Hải, chúng tôi nhận thấy Bến Đông Bộ Đầu có lẽ nằm trước cổng Đền bên bờ sông Nhị Hà (sông Lô Giang trước đây). Năm Ất Tỵ (1785), có 5 vạn ngư dân: Biện Dương, Đông Trạch, Lăng Hộ, Chúc Lăng, Cơ Xá lập làng Đông Bộ Đầu. Theo bản đồ Hồng Đức năm 1490, bến có thể dài tới 2km. Thường cũng giống như phà Chèm, phà Xu ở Hà Nội chỉ dài từ 30-50m. Kính mong các nhà nghiên cứu tiếp tục làm sáng tỏ và trao đổi thêm các tư liệu lịch sử.