Người dân Nam sông Luộc vẫn có câu: “Cao nhất là núi Tản Viên / Sâu nhất là Thủy Tiên, Phủ Hà”. Phủ Hà là một làng cổ nằm cạnh ngã ba sông Hồng và phụ lưu sông Luộc, nay thuộc xã Tân Lễ, huyện Hưng Hà. Lại có câu: “Trăm cửa bể phải tôn cửa Vương, cửa Vương phải nhường cửa Lược” (cửa Tuần Vương, nay thuộc địa phận giáp ranh giữa xã Hồng Lý (Vũ Thư) và xã Hồng Minh) (Hưng Hà), đó là lý do Từ xa xưa, Thái Bình là vùng đất dày đặc được sông ngòi bao bọc, phù sa bồi đắp nên đôi bờ xanh tươi, cũng là “giao điểm” của các dòng sông với tiềm lực quân sự, tạo nên phòng tuyến bảo vệ giang sơn. ..
Phụ lưu sông Hồng và sông Luộc, một trong những “giang sơn” quan trọng của các triều đại Lý – Trần và các triều đại sau này trong việc bảo vệ giang sơn của Đại Việt.
Ở nước ta, trong thời kỳ phong kiến, nhà nước trung ương tập trung quyền lực chăm lo việc sắc phong thần, thiên thần (gọi tắt là thờ thần), tôn là “thần quyền”. Các tài liệu nghiên cứu cho thấy, tín ngưỡng thờ thần có từ rất sớm. Câu chuyện về vị “thần” được “văn hóa” được biết đến lần đầu tiên trong sách “Việt Điện U Linh” xuất bản năm 1329 và cuốn “Lâm Nam chí lược” cũng được biên soạn vào cuối thời Trần. Đây là những truyền thuyết dân gian được “văn hóa hóa”, theo đó quyền lực chính trị và thần quyền đều có được cùng với quá trình tổ chức bộ máy nhà nước tập trung cao độ về thế tục. Sau này, do ảnh hưởng của Nho giáo, tín ngưỡng và phong tục thờ cúng thần linh ngày càng được chú trọng, trong đó thủy thần (thần sông) đã có ảnh hưởng lớn đến đời sống của nhân dân tỉnh ta. vị trí địa lý của tỉnh ta với nhiều sông ngòi. ngòi rối. Trăm thần được quy tụ, phân loại và thứ bậc theo tinh thần Nho giáo chính thống. Các bậc Thượng Đẳng thần, Trung Đẳng thần, Hạ Đẳng thần (Tôn thần) bắt đầu được sử dụng từ thời Lê trở đi. Các vị thần quan trọng đối với triều đại được nhà nước nâng cấp, chăm sóc và tế lễ ở kinh đô và các địa phương theo nghi lễ nhà nước (dân gian gọi là quốc tế). Thần hộ mệnh của các làng được vua sắc phong và lệnh cho nhân dân địa phương thờ cúng.
“Giang môn” đầu tiên của tỉnh ta phải kể đến là đoạn sông Hồng chảy đến thôn Phú Hạ thuộc xã Tân Lễ, huyện Hưng Hà, thành nơi hợp lưu của các con sông (sông Hồng, sông Luộc) với nước chảy xiết và tàu thuyền. Thuyền bè qua lại nơi đây thường viếng đền thờ Công chúa Thủy Tiên (con vua Thủy Tề), cầu may, thuận buồm, xuôi gió. Tương truyền rằng: Thuở ấy có một người ở xã Ngọc Lập, tổng Thanh Miện, phủ Hồng Châu, lộ Hải Đông (nay là Thanh Miện, Hải Dương), họ Liễu, hiệu là Nghị, là người học giỏi nổi tiếng. Một hôm Nghi cùng gia đình chèo thuyền thưởng ngoạn phong cảnh. Thuyền đến cửa Luộc (Phủ Hà), chợt nghe tiếng ngâm thơ, bi tráng, Nghi lấy làm lạ nên nói với những người trong gia đình đi theo: “Không biết là tiên hay ma. những từ ngữ lạ lùng như vậy. Thật là thảm hại. ” Liễu Nghiên liền cho người dừng thuyền bên bờ sông, một mình trên bờ, bỗng nhiên Nghi nhìn thấy bóng dáng một thiếu nữ trạc hai mươi tám mươi tuổi, xanh như liễu rũ, má đỏ như hồng. đào hoa, Liễu Nghiên chợt nghĩ: “Dù là tiên nữ ở cung Nguyệt phủ hay thiếp ở thượng giới cũng không thể hơn được”. Cô con gái khi nhìn thấy mặt Liễu Nghị thì đoán là người nhân hậu, nước mắt đầm đìa nói: “Ta là con gái của vua Bát Hải Động Đình, vợ của Kinh Xuyên (vua Dương Vương), không phải. mong đợi một thiên thần đến. tai họa vô cớ, nay may mắn gặp được người tốt ở đây, dám nhờ người có phương án giải cứu oan khiên, ta thề có sông có núi không quên ơn nghĩa ”.
Quá trình điền dã kết hợp với khảo sát di tích, nhóm nghiên cứu của chúng tôi thu được nhiều tài liệu cổ về các nơi thờ thần, trong đó có nhiều nữ thần, thánh mẫu, nhiều di chỉ cổ thuộc vùng cửa sông, cửa biển. biển trọng yếu. Nhiều làng, xã trong tỉnh có truyện cổ tích giống nhau như “Sự tích Hùng Vương” do Hàn lâm viện Nguyễn Cơ soạn năm Hồng Đức I (1470), truyện cổ tích về “Cao Sơn đại vương” do Lê Tung sáng tác. năm Hồng Đức. Hồng Thuận 2 (1510) như ở các xã Văn Lang (Hưng Hà), Việt Hùng (Vũ Thư), Đông Hải, An Vũ (Quỳnh Phụ) …
Theo các tài liệu nghiên cứu, hầu hết các di vật còn lưu giữ ở các đình, miếu, chùa trên địa bàn tỉnh ta đều được ghi chép là “Đại thần Đồng Nguyễn Bính Phụng niên hiệu Hồng Phúc (1572) và Quản cơ Bách thần Nguyễn Hiền thờ sao”. năm Vĩnh Hựu 3 (1736) ”. Trong các văn bản này, thần tiên có bối cảnh là thần thiên nhiên khá phổ biến, thường gắn với các truyện cổ tích như Thần Đá, Thần Nước, Thần Mưa, Thần Sấm, Thần Cây (Cây Trôi – Đình Cây Trôi, xã Tự Tân, huyện Vũ Thư), Gò thần (đi), Động … Đó là biểu hiện của tín ngưỡng vạn vật hữu linh từ trong lòng xã hội nguyên thủy. Một dạng khác là nhân thần có nguồn gốc từ thiên thần và nhân thần là anh hùng dân tộc hoặc có công, liên quan đến dân làng.
Các triều đại phong kiến luôn đánh giá cao tầm quan trọng của các cửa biển, bãi biển của Thái Bình. Thời nhà Trần, Thái sư Trần Quang Khải từng tháp tùng vua Trần Thánh Tông đến Hải Ấp khảo sát thực địa trước cuộc tấn công quy mô lớn của quân Mông Cổ, đổ bộ vào bến Lưu Gia (thôn Lưu Xá, xã Canh Tân). Huyện Hưng Hà ngày nay), tức cảnh hữu tình, Thái sư đã chấp bút phỏng theo bài thơ “Lưu Gia đồ”, trong đó khẳng định: “Thái Bình làm chi thiên mệnh / Lý đại quan Hà Nhì trung nhân”. “Thái Bình ngàn năm vạn tài / Nhà Lý hai trăm năm dài mệnh”. Nhìn từ kinh thành Thăng Long dọc theo sông Nhị Hà (còn gọi là sông Cái, sông Hồng), đến ngã ba sông Nông Kỳ (còn gọi là sông Luộc) đổ vào bến Hải Thi được nhà Trần gọi là Hoàng Giang. . Hoàng Giang theo dòng chảy, bên phải là điện Lý Nhân (nay là Phủ Lý, Hà Nam) xuống một đoạn là điện Thiên Trường và bên trái là Long Hưng, Ngự Thiên tạo thế “Long hổ, hổ phục”. Trong suốt 174 năm trị vì, nhà Trần luôn dựa vào Long Hưng để cung cấp nhân lực, vật lực cho đại quốc. Kế hoạch “về quê sống” cũng từ đây mà ra. Đội quân của Tinh Cương đánh đông dẹp bắc cũng “lấy” quân chủ yếu ở Long Hưng và do Thái úy Trần Nhật Hào huấn luyện ở thái ấp Dương Xá (nay thuộc xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà). tham gia trận đầu chống quân xâm lược Nguyên Mông. Trần Nghệ Tông, vị vua quá cố của nhà Trần, từng phải “vi hành thái cực” vì cuộc nổi loạn của Dương Nhật Lễ buộc phải bỏ kinh thành lánh nạn, nhưng khi “thanh thản” ông vẫn nhớ đến Ngự Thiên với tâm niệm rằng đó là của mình. quê cha, đất tổ. Tôi đã thốt lên một câu thơ: “Nhìn vách thấy bóng, ăn canh nhớ người…”.
Vùng quê Hải Ấp (Hưng Hà ngày nay) là nơi nhà Trần, thân sinh của vua Trần, sinh ra và lớn lên cùng với sự lớn mạnh của dòng họ Trần từ khi bỏ nghề sông nước đã đưa dòng họ Trần trở thành những bậc danh nhân thiên tài. lên bờ làm ruộng và vào kinh thành Thăng Long có từ thời Lý. Khi đã thống lĩnh thiên hạ để dựng nghiệp đế vương, thì các vương triều khi “lớn tuổi” sẽ trở về quê hương bản quán nơi mình sinh ra để gửi gắm thân phận nơi ngã ba sông.
Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” ghi lại cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ 2 (1285), ngoài việc rút lui chiến lược, nhà Trần còn phải “đóng cọc, đắp đê ngăn giặc” ở bến Hải Thi (nay là quen gọi là xã Hải Thi). Tân Lễ) và Ngự Thiện (nay là xã Hồng Ân và thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà) mà sách “An Nam chí lược” chép rằng, quân Nguyên Mông gọi cửa Hải Thị là “cửa thành nhà Trần”. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng trong cuộc chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ hai cam go, ác liệt, ngày 10 tháng 5 năm 1285, tướng quân Trần Quang Khải chỉ huy đại quân từ Long Hưng trực tiếp đánh đuổi. quân xâm lược Mông Cổ. tấn công vào cơ quan đầu não của địch ở thành Thăng Long và bến Chương Dương, làm cho quân địch bị tổn thất nặng nề. Nhận được tin chiến thắng, ngày 15 tháng 5 năm 1285, hai vua Trần trở về Ngự Thiên – Long Hưng để tỏ lòng thành kính với tổ tiên và báo tin thắng trận. |
Quang Viên