Một khúc sông Cổ Cò tỉnh Quảng Nam – Ảnh: TRƯỜNG TRUNG
Câu chuyện về một con đường thủy đã từng tồn tại trước khi tàn lụi đang chờ được hồi sinh …
“Các dòng chảy song song với biển đóng vai trò quan trọng trong giao thương, phát triển kinh tế với nước ngoài. Nền văn minh thời kỳ đó vẫn nằm ven sông” – nhà văn Hồ Trung Tự có nhiều nghiên cứu. về vùng đất này, chia sẻ.
Tuyến đường vận chuyển
Tác giả của 500 năm như thế cho rằng, nếu như thời kỳ trước Hội An được coi là cửa ngõ để các nước vào đất Nam Kỳ thì sông Cổ Cò chính là cánh cửa đầu tiên mở ra vai trò giao thương đường thủy.
Nhìn tuyến đường mới nối hai bên cầu Ông Điền (TP Hội An, Quảng Nam), ông Tú vui mừng khi thấy dòng sông hoang sơ không ngừng chảy.
Sau nhiều năm tìm hiểu lịch sử vùng đất Quảng, ông cho rằng nếu phải chọn công trình nào mang tính biểu tượng nhất cho sự hợp tác và phát triển giữa hai tỉnh Quảng Nam và Đà Nẵng thì đó chính là dự án. mở sông Cổ Cò.
Một hành lang kinh tế từng tràn trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân xứ Quảng nhiều thế kỷ trước nay đang dần hồi sinh.
Trong quá khứ, từ thế kỷ XVII, Hội An (Quảng Nam) đã trở thành thương cảng lớn nhất Nam Kỳ, thu hút các thương thuyền Nhật Bản, Trung Quốc,… Với ngõ nhỏ, mọi giao thương, hàng hóa đều phụ thuộc vào đường thủy.
Người ta so sánh thương cảng Hội An như “ngã ba đường” lớn của Nam Kỳ, nơi hợp lưu của cả ba con sông đổ ra biển. Hội An nối liền với phía Nam bằng sông Trường Giang, phía Bắc là sông Cổ Cò và thượng nguồn bởi hệ thống sông Thu Bồn rộng lớn.
Nhờ thừa hưởng thế mạnh về giao thông và hậu phương là vùng đất trù phú rộng lớn với những cư dân cần cù lao động mà Hội An phát triển rực rỡ vào thế kỷ XVII.
Nhà văn Hồ Trung Tự cho rằng, trong ngoại thương, những con sông chảy song song với bờ biển đóng vai trò rất quan trọng.
Bởi những con tàu chở hàng nặng cách đây hàng trăm năm không dễ dàng ra giữa biển đón gió mà phải men theo đường bờ biển, tận dụng tối đa luồng gió kín để đảm bảo an toàn cho người và hàng hóa.
Hội An lúc bấy giờ phát triển giao thương chủ yếu với các thương thuyền Châu ấn, các thương thuyền Nhật Bản của Mạc phủ Tokugawa và Phúc Kiến, Quảng Đông (Trung Quốc).
Các tàu buôn từ miền Bắc thường vào vịnh Đà Nẵng rồi men theo “con đường tơ lụa” Cổ Cò vào Hội An. Đường này có thể thuận tiện hơn vì không phải đi vòng quanh bán đảo Sơn Trà nên rút ngắn lộ trình và an toàn.
Để minh chứng cho “nền văn hiến kinh kỳ” còn nằm ven sông Cổ Cò, chúng tôi đến chùa Vạn Đức nằm trên cầu Ông Điền thuộc xã Cẩm Hà. Ngôi chùa đã trải qua 13 đời trụ trì hướng ra sông nước mà người sáng lập là Thiền sư Minh Lượng (1626-1709) quê ở Triều Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc.
Lịch sử chùa kể rằng vào nửa sau thế kỷ XVII, thiền sư vào Nam thọ giới tại chùa Thiền Lâm – Thuận Hóa theo lời mời của chúa Nguyễn.
Sau đó, ông chuyển vào Hội An, được một phật tử hiến đất này, lập một thảo am nhỏ để tu hành. Lâu dần được xây dựng thành một ngôi chùa có quy mô lớn lấy tên là Lăng Thọ Tự, sau đổi là chùa Vạn Đức.
Có một lý do để các nhà sư xem vai trò của dòng sông đối với ngôi chùa là hướng của cửa chính. Khi mở núi, chùa hướng ra sông Cổ Cò đón làn gió trong lành từ các thuyền buôn qua lại trên sông.
Nhưng rồi khi sông bồi lấp, cảnh trên bến dưới thuyền không còn, ngôi chùa đổi hướng về làng xung quanh. Đến nay “Châu về Hợp Phố” khi sông chờ hòa vào dòng.
Bản đồ sông Cổ Cò nối Đà Nẵng và Hội An (đậm nét song song với bờ biển) các thế kỷ trước – Ảnh: Tư liệu
Khi nào thì sông ngừng chảy?
Đã có nhiều ghi chép chứng minh vai trò quan trọng của Cờ Co trong việc hội nhập Nam Kỳ. Có rất nhiều tác phẩm, đặc biệt là của những người nước ngoài đến Hội An từ nhiều thế kỷ trước đề cập đến dòng sông lịch sử này.
Một trong những tác phẩm nổi tiếng và phổ biến nhất được lưu giữ trong các thư viện lớn ở Châu Á là cuốn Hải ngoại ký sự của Hòa thượng Thích Đại Sán xuất bản vào thế kỷ XVII.
Nhận lời mời của chúa Nguyễn Phúc Chu, năm 1695, Hòa thượng Thích Đại Sán vào Nam Kỳ dự đàn và có một thời gian dài rong ruổi, ghi chép tư liệu lịch sử. Một trong những mô tả của ông về sông Cổ Cò cho thấy tầm quan trọng của tuyến đường vận chuyển này:
“Ngủ trên thuyền khoảng nửa tiếng, tôi thấy Đông sáng trắng, mặc áo choàng đứng dậy thấy sóng yên biển lặng. Hỏi thăm người dân gần đó thì tôi mới biết đây là nơi trú ngụ của các cụ.” gió nhiều thuyền chở lương về Hội. An ”.
Ngay cả trước khi có nhà sư Thích Đại Sán, những lữ khách phương Tây đến Nam Kỳ lúc bấy giờ như Christoforo Borri (1622) đã nhận ra vai trò quan trọng của sông Cổ Cò trong việc nối liền Hội An và Đà Nẵng. Nang.
Borri viết: “Hội An và Đà Nẵng là hai cửa biển khác nhau, nhưng lại gần nhau và dễ thông thương với nhau, nên người châu Âu coi đây là một cảng duy nhất có hai cửa ra vào và gọi là cảng Quảng Nam”.
Nhưng sau đó con đường thủy quan trọng bị cắt đứt, bị lãng quên sau khi bị lấp. Sách Đại Nam nhất thống chí do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn vào thế kỷ 19 ghi rằng sông Cổ Cò nằm ở hạ lưu hai huyện Diên Phước và Hòa Vang. Nguồn nước của sông chảy từ xã Thanh Châu về phía bắc khoảng 42 dặm qua phía tây núi Ngũ Hành Sơn vào sông Cẩm Lệ.
Lòng sông bị bồi lấp cạn, phải đợi thủy triều lên. Như vậy, cuối thế kỷ 19, sông Cổ Cò vẫn “bơi” như một dòng sông chết.
Nhà văn Hồ Trung Tự cho rằng, sông Cổ Cò dù sớm chấm dứt sứ mệnh giao thông, thông thương nhưng vẫn trở thành dòng sông lịch sử của Hội An. Bởi ngoài những ghi chép, những giá trị văn hóa, vật chất còn tồn tại đến ngày nay thì đâu đó dưới lòng sông vẫn còn đó những câu chuyện mà hậu thế chưa biết đến.
“Trong lịch sử một thời vàng son của Hội An, dòng sông cũng góp một phần vì ý nghĩa vừa rút ngắn khoảng cách, vừa mang lại sự an toàn cho hành trình đến với thương cảng phồn hoa” – ông Tú nói.
Vào thế kỷ 17-18, Hội An còn là thương cảng đóng vai trò rất quan trọng trong việc hình thành “con đường gốm sứ” trên Tây Nam Thái Bình Dương.
Nó là trung gian kép giữa các vùng biển Đông Nam Á và Trung Quốc, cũng như giữa Nhật Bản và Trung Quốc trên tuyến đường gốm sứ xuyên Thái Bình Dương trong kỷ nguyên thương mại thế giới.
Theo nhà nghiên cứu Võ Hương An, tuyến đường vào Hội An từ Đà Nẵng hẻm theo sông Cổ Cò, thuận tiện cho tàu thuyền từ phía bắc và đông bắc (Trung Quốc, Nhật Bản, Philippines).
Theo tính toán, nếu tàu đi theo tuyến này sẽ không phải đi đường vòng qua bán đảo Tiên Sa, rút ngắn 1/3 lộ trình, tránh được khả năng xảy ra sóng lớn.
*********
Vào cuối thế kỷ 19, nhiều đoạn của tuyến đường thủy quan trọng nối hai thị trấn bị ngập lụt. Người Pháp đồng thời tìm cách nạo vét tuyến giao thông này và đầu tư tuyến đường sắt Đà Nẵng – Hội An …
>> Lần tới: Sự đi lên của một cảng