Tượng sư tử được coi là linh vật ở quốc gia, dân tộc này, nhưng nó cũng bị coi là ‘xui xẻo’ ở quốc gia, dân tộc khác.
Vì vậy, khi trưng bày tượng sư tử cần lưu ý đến yếu tố biểu tượng về giá trị văn hóa tâm linh, phong thủy…
Sư tử là biểu tượng của ngai vàng, là điềm lành, bước phát triển mới trong tín ngưỡng dân gian ở nhiều nước trên thế giới. Múa sư tử khá phổ biến ở nhiều nước phương Đông, đặc biệt là trong các dịp lễ, tết, khai giảng và nhiều hoạt động văn hóa khác.
Ở nơi ở của giai cấp thống trị hoặc các công trình kiến trúc tôn giáo – tâm linh, người ta đặt các cặp tượng sư tử đá lớn, linh khí hung dữ… tập trung thể hiện vị thế độc tôn của gia chủ.
Ngược lại, người dân nhiều địa phương ở nước ta coi sư tử là thú dữ, tượng sư tử không phải là “đồ chơi phong thủy” hay vật trang trí truyền thống. Người Việt múa rồng, múa lân trong các lễ hội truyền thống và các trò chơi dân gian; trưng bày tượng, treo tranh con vật… là những con vật gần gũi với mỗi gia đình trong cuộc sống hàng ngày.
Từ cung đình đến các kiến trúc tôn giáo – tâm linh, người Việt chủ yếu sử dụng hình tượng rồng – phượng, kỳ lân, Nghê, rùa, hạc, voi, ngựa… để trang trí, hóa giải. Phong thủy.
Đặc điểm nổi bật trong các công trình kiến trúc và tạo hình của linh vật Việt là tạo cảm giác thân thiện, gần gũi, uy nghiêm mà hiền hòa… Đây cũng là một trong những đặc điểm xuyên suốt của tinh thần văn học. văn hóa và truyền thống của dân tộc mình.
Về mặt phong thủy, ở Trung Quốc và một số nước trong khu vực, tượng sư tử chủ yếu dùng để trấn yểm, làm bằng đá, đồng, ngọc hoặc gốm sứ (ngũ hành thuộc kim), dáng vẻ hung dữ, phù hợp với các mục đích trấn áp ma quỷ, tiêu diệt sát khí.
Phong thủy không khuyến khích trấn yểm, vì trấn áp luôn đi liền với nguy cơ phản công khi lực lượng chống đối đủ mạnh hoặc “phép yếu”. Bản thân sư tử cũng là loài động vật khó thuần phục và thường phản bội, hãm hại chủ nhân.
Vì vậy, khi bày tượng sư tử phải tuân thủ những nguyên tắc phong thủy rất nghiêm ngặt: Tượng làm bằng ngọc phải gọi là ngọc sư, tượng đá là thạch sư, tượng gốm là sư đào, tượng bằng đồng là sư bằng đồng… thời gian, tùy theo màu sắc, cần phân biệt rõ sư tử hồng (sư tử bờm đỏ), sư tử trắng, sư tử đen, sư tử xanh (sư tử xanh), sư tử kim loại (sư tử vàng) …
Để làm tượng sư tử, bạn phải chọn ngày khởi tạo và ngày hoàn thành. Người thợ phải thực hành giới luật trước khi tạc tượng. Chất liệu làm tượng phải đồng nhất và tương hợp hoặc tương hợp với màu sắc của tượng.
Theo các nhà phong thủy Trung Quốc, việc bày tượng sư tử phải tuân theo những nguyên tắc sau:
Tượng sư tử chỉ nên bày ở cổng, cửa ra vào hoặc sân vườn. Diện tích sân vườn càng lớn càng tốt. Khoảng trống phía trước đầu sư tử (tính đến hàng rào) phải lớn hơn 5 m; Nếu bày trước cổng thì mái che cổng ra vào phải cao hơn mặt đất 3 m.
Tượng sư tử đá phải được phối với đá hoặc cây cảnh. Đá bày tượng sư tử hình ô van màu nâu sẫm, rêu phong. Cây cảnh thích hợp cho tượng sư tử là vạn tuế, vạn tuế, la hán, lựu hay sanh, si…
Không nên bày tượng sư tử trên bàn làm việc, trong phòng đọc sách, phòng ngủ. Không được bày tượng đối diện với phòng hoặc đối diện nhau, bày ở cửa phòng này không được đối diện với cửa phòng khác.
Tượng sư tử phải được trưng bày theo từng cặp, với đầu hướng về một điểm ở phía trước. Không nên sử dụng cặp có cả hai trẻ em nhìn thẳng về phía trước. Nếu một trong hai tượng bị hư hỏng, nứt vỡ … thì phải thay ngay tượng mới hoặc cả đôi tượng.
Nhà có nhiều gian, nhiều toà liên tiếp, cùng một hướng hoặc nhà thiết kế theo mô hình “tứ gia” thì các cặp tượng sư tử phải được bày theo cùng một hướng, từ trong ra ngoài, từ nhỏ đến lớn.
Tượng sư tử phải bày vào mùa thu đông, không được trưng bày vào mùa xuân và hạ. Trừ những trường hợp đặc biệt cần chọn ngày giờ Hoàng đạo, giờ Hoàng đạo, thiên can Mậu, Kỷ hoặc Nhâm, Quý để bày tượng sư tử …
Có thể nói, trước sự khác biệt về văn hóa và những yêu cầu về phong thủy nêu trên, việc sử dụng tượng sư tử có nên hạn chế hay không. Nguyên tắc cơ bản của phong thủy là “nhân hòa và phú quý”. Tuân theo quy luật tự nhiên và xã hội là cái gốc của sự trường tồn và phát triển.
Nhà nghiên cứu văn hóa Phạm Đình Hải