Cột cờ Lũng Cú – địa điểm du lịch hấp dẫn
Trong những ngày cả nước tưng bừng kỷ niệm 77 năm Cách mạng Tháng Tám thành công và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2/9, chúng tôi đến Hà Giang và thăm Cột cờ Lũng Cú – điểm cực Bắc. của Tổ quốc.
Từ thành phố Hà Giang vượt qua gần 200 km đường núi với những khúc cua chóng mặt, chúng tôi đến với xã Lũng Cú, huyện Đồng Văn, nơi có Khu di tích lịch sử quốc gia Cột cờ Lũng Cú.
Từ xa nhìn lại, Cột cờ Lũng Cú sừng sững trên đỉnh núi Rồng, lá cờ đỏ sao vàng tung bay kiêu hãnh trong gió. Vừa là di tích lịch sử, vừa là điểm cực Bắc thiêng liêng của Tổ quốc, bao năm qua, Cột cờ Lũng Cú luôn là điểm đến yêu thích của hàng nghìn du khách gần xa.
Theo chân du khách thập phương về thăm Cột cờ Lũng Cú – một di tích lịch sử thiêng liêng, anh hùng của dân tộc. Qua một chặng xe điện, từ điểm chờ, du khách bắt đầu hành trình leo 279 bậc thang để đến khu vực cột cờ trên đỉnh núi Rồng.
Có thể nói, mỗi bước chân lên những bậc thang dẫn lên cột cờ Lũng Cú, ta lại trải qua những cung bậc cảm xúc khác nhau. Càng lên cao, khung cảnh Lũng Cú càng trở nên tươi đẹp. Từ trên cao nhìn xuống, du khách có thể thỏa thích ngắm nhìn cảnh núi non hùng vĩ, hùng vĩ nơi địa đầu Tổ quốc. Dưới chân núi nhìn xuống, là cánh đồng Then Pả rộng hơn 10 ha bao bọc núi Rồng, những nếp nhà tường, mái ngói âm dương cổ kính của bản Lô Lô Chải và đồng bào dân tộc Mông đang cư trú. . ngay chân cột cờ… khung cảnh như một bức tranh mực khổng lồ trên cao nguyên đá, gợi cho du khách những cảm nhận sâu sắc về sự giao hòa giữa thiên nhiên và con người miền biên viễn.
Từ chân cột cờ, men theo 135 bậc thang xoắn ốc, chúng tôi leo lên đỉnh cột cờ. Khoảnh khắc đứng giữa nơi cao cả trên đỉnh Cực Bắc, nhìn lên lá cờ đỏ bay phấp phới trời, tự hào trong nắng gió miền biên viễn, nhất là khi được chạm tay vào lá cờ đỏ thiêng liêng … Chúng tôi tràn ngập cảm xúc và cũng rất tự hào.
Anh Nguyễn Quốc Thắng, du khách đến từ Thành phố Hồ Chí Minh cho biết, đây là lần đầu tiên anh đến Hà Giang để thăm Cột cờ Lũng Cú, nơi cực Bắc của Tổ quốc. “Khoảnh khắc chạm tay vào lá cờ Tổ quốc, tôi cảm thấy thật thiêng liêng và tự hào”, anh Thắng bày tỏ.
Không chỉ anh Thắng mà nhiều du khách khác cũng không khỏi xúc động khi đặt chân đến Khu di tích lịch sử Quốc gia linh thiêng này. Ông Nguyễn Văn Hùng, một cựu chiến binh quê ở Nghệ An rưng rưng: “Tôi đã ngoài 70 tuổi, nhưng đây cũng là lần đầu tiên tôi đến thăm Cột cờ Lũng Cú. Được leo lên đây, được nghe Quốc ca trên mảnh đất địa đầu của Tổ quốc, được chạm tay vào lá cờ thiêng liêng này, tôi mãn nguyện lắm rồi, không còn gì phải tiếc nuối nữa ”, anh Hùng xúc động chia sẻ.
Cô Lưu Thị Hạnh, giáo viên Trường Tiểu học Lũng Cú cho biết, cô đã sống và làm việc ở đây gần 5 năm, nhiều lần đưa các đoàn khách, đại biểu lên thăm cột cờ, nhưng lần nào đến đây cô cũng thấy xúc động, nhất là khi. được tham gia lễ chào cờ, được nghe âm hưởng hùng tráng của bài Quốc ca, em cảm thấy thật thiêng liêng, vinh dự và tự hào.
Biểu tượng thiêng liêng của Tổ quốc
Những ai đến với Cột cờ Lũng Cú chắc chắn sẽ không quên câu chuyện huyền thoại về đỉnh Lũng Cú mà người kể duyên dáng thường kể mỗi khi có du khách đến thăm. Tương truyền, Lũng Cú là nơi sinh sống của các dân tộc thiểu số, đa số là dân tộc Mông và Lô Lô.
Lũng Cú có nhiều tên gọi, theo cách gọi dân dã, mộc mạc của người Mông thì Lũng Cú là Lũng Ngô (vì trong tiếng Mông, ow có nghĩa là ngô). Còn dân tộc Lô Lô gọi Lũng Cú là Lũng Cú – nơi rồng sinh sống.
Tương truyền, ngày xưa, các nàng tiên rồng xuống trần gian du ngoạn, vì yêu thích cảnh đẹp tuyệt vời nơi đây nên đã đáp xuống ngọn núi trước làng, chính là núi Rồng ngày nay. Yêu mến vùng đất này, nhưng tiên rồng cũng nhận thấy cuộc sống của người dân nơi đây vô cùng khốn khó, thiếu nước trầm trọng nên trước khi về trời, nàng tiên rồng đã động lòng trắc ẩn, đặt mắt nhìn rồng vào. nơi này. Và hai mắt rồng đã biến thành hai hồ nước ngọt dưới chân núi. Hồ bản Then Pả (thuộc bản dân tộc Mông) và hồ bản dân tộc Lô Lô. Nhờ có 2 hồ nước ngọt này mà cuộc sống của người dân nơi đây đã đỡ vất vả hơn. Điều kỳ diệu là, dù thời tiết khô hạn đến đâu, nước ở hai hồ này vẫn không bao giờ cạn. Trước đây, người dân trong làng vẫn sử dụng nước ở hai hồ để ăn uống và sinh hoạt. Nhưng ngày nay, Đảng và Nhà nước đã quan tâm và xây dựng cho các hộ gia đình bể chứa nước mưa tại nhà. Vì vậy, người dân không dùng nước hồ để sinh hoạt nữa mà chỉ dùng để tưới cây trồng.
Cùng với sự tích Núi Rồng, chúng ta còn được nghe câu chuyện lịch sử hào hùng của Cột cờ Lũng Cú. Sử sách ghi lại rằng, di tích Cột cờ Lũng Cú ra đời từ thời Lý. Ngày xưa, Thái úy Lý Thường Kiệt đã tập trung quân bảo vệ biên cương, cắm cờ trên đỉnh núi Rồng để khẳng định chủ quyền lãnh thổ của nước ta. Từ đó đến nay, trong suốt chiều dài lịch sử, vùng đất biên cương nơi cực Bắc của Tổ quốc luôn được bảo vệ, gìn giữ.
Vào thời Tây Sơn, khi vua Quang Trung đánh tan quân xâm lược, nhận thấy tầm quan trọng của vùng đất biên ải này, ông đã cho xây dựng đồn canh ở đây, dưới đồn canh có đặt một chiếc trống đồng, mỗi chiếc canh. được đánh ba lần với tư thế đĩnh đạc và vang dội để khẳng định chủ quyền lãnh thổ. Vì lẽ đó, vùng đất này còn có tên là Long Cơ (trống vua).
Năm 1978, Đồn Công an vũ trang nhân dân Lũng Cú (nay là Đồn Biên phòng Lũng Cú) đã trồng cột cờ trên đỉnh núi Rồng tại vị trí hiện nay. Khi đó, cột cờ chỉ cao bằng một cây đàn hương, cao 12 m, mặt cờ rộng 1,2 m. Năm 1979, chiến tranh biên giới phía Bắc bùng nổ, đỉnh núi Rồng được lực lượng vũ trang Công an nhân dân Lũng Cú khóa chặt và bảo vệ vững chắc.
Năm 2000, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Hà Giang cho phép huyện Đồng Văn xây dựng công trình tầm cỡ quốc gia – Cột cờ Lũng Cú, bằng bê tông cốt thép, thay thế cột cờ bằng gỗ lúc bấy giờ. Để phù hợp với cột cờ to lớn và uy nghiêm, lá cờ rộng 54 m2 đã ra đời. Với những giá trị lịch sử sâu sắc, ngày 18/11/2009, Nhà nước đã công nhận Cột cờ Lũng Cú là Di tích lịch sử cấp Quốc gia.
Năm 2010, khi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đến thăm Cột cờ Lũng Cú, đồng ý cho Hà Giang xây dựng cột cờ mới to đẹp hơn để khẳng định vị thế của nước ta trong công cuộc đổi mới đất nước. và khẳng định chủ quyền quốc gia.
Cột cờ Lũng Cú hiện nay được khởi công ngày 8 tháng 3 năm 2010 và hoàn thành vào đúng ngày Quốc khánh 2 tháng 9 năm 2010. Cột cờ nằm trên đỉnh núi Rồng, cao 1.468 m so với mực nước biển. Tổng chiều cao của cột cờ gần 35m, lá cờ rộng 54m, tượng trưng cho 54 dân tộc anh em cùng chung sống trên lãnh thổ Việt Nam.
Dưới chân cột cờ có 8 bức phù điêu bằng đá xanh, trên 8 bức phù điêu là những hình ảnh minh họa quá trình dựng nước và giữ nước của ông cha ta, đan xen những nét văn hóa đặc sắc của cộng đồng. các dân tộc ở Hà Giang. Phía trên 8 bức phù điêu được gắn 8 chiếc trống đồng, vừa là biểu tượng của văn hóa Việt Nam, vừa gợi nhớ tiếng trống của vua Quang Trung năm xưa, để con cháu ngàn đời ghi nhớ công lao dựng nước của tổ tiên. ta.
Trong những năm chiến tranh và mãi về sau, nhiệm vụ bảo vệ lá cờ Tổ quốc trên đỉnh Lũng Cú được giao cho cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng Lũng Cú. Khi lá cờ bị bạc màu hoặc bị rách, những người lính thay thế nó bằng một lá cờ mới.
Bà Nguyễn Thị Hoa, người dẫn chuyện tại Khu di tích Quốc gia Cột cờ Lũng Cú cho biết, nhiều năm nay, Khu di tích lịch sử Quốc gia Cột cờ Lũng Cú luôn thu hút một lượng lớn du khách đến tham quan. Sau gần 2 năm vắng bóng do ảnh hưởng của dịch COVID-19, từ đầu năm 2022 đến nay, lượng khách đến với Lũng Cú tương đối ổn định, trung bình mỗi ngày khu di tích đón khoảng 200-300 lượt khách. đến thăm nơi đầu tiên. Cực Bắc của Tổ quốc, hãy cảm nhận tầm vóc sông núi của đất nước Việt Nam ta …
Bà Nguyễn Thị Hoa cho biết, mỗi lá cờ Tổ quốc đều có đánh số và có ghi cụ thể ngày, giờ kéo cờ, hạ cờ. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, những lá cờ Tổ quốc bạc màu vì nắng mưa hoặc bị rách do gió bão được Đồn Biên phòng Lũng Cú lưu giữ và làm quà tặng cho các đoàn khách đặc biệt đến thăm Lũng Cú. Đến nay, truyền thống đó vẫn được lưu giữ, những lá cờ Tổ quốc trên đỉnh Lũng Cú đã trở thành kỷ vật thiêng liêng, mà nhiều đoàn khách ao ước có được.