Giữa núi rừng, khu di tích mang vẻ bình yên, giản dị nhưng trang nghiêm và linh thiêng. Đây là nơi để lại dấu ấn đậm nét về sự ủng hộ của nhân dân trong vùng đối với Chỉ huy trưởng Ban Tình nguyện Lào – Bắc, Chủ tịch Kaysone Phomvihane.
Anh em cùng một nhà, chung thủy, trung thành.
Ông Tráng Lao Lu chậm rãi đi bên cạnh biểu tượng hữu nghị Việt – Lào với những cánh sen, hoa Chămpa cách điệu, thể hiện nét văn hóa đặc trưng của hai nước. Anh Lả là con trai của ông Tráng Lao Khô – người dân bản Phiêng Sa đã nuôi nấng, giúp đỡ Chủ nhiệm Kaysone Phomvihane, Ban TNXP Lào – Bắc mượn đất xây dựng căn cứ địa cách mạng. Trong những năm tháng đó, ông Tráng Lao Khô cũng là người trực tiếp chỉ đạo Ban xung phong Lào – Bắc, trực tiếp vào rừng công tác, tiếp tế lương thực để nuôi cán bộ Việt Minh.
Đã gần 90 tuổi nhưng khi nhắc đến câu chuyện lịch sử, ông Tráng Lao Lử vẫn bồi hồi xúc động. Ngày ông Kaysone Phomvihane được bố trí ở nhà ông Tráng Lao Khô và được ông Kho nhận làm con nuôi với trách nhiệm là con cả trong gia đình, lúc đó ông Lử mới 10 tuổi. “Theo phong tục tập quán của dân tộc Mông, sau khi được nhận làm con nuôi, gia đình tôi và ông Kaysone đã làm lễ cắt máu tại nhà. Với nghi lễ cắt máu này, mỗi thành viên trong gia đình có trách nhiệm đùm bọc, giúp đỡ nhau như anh em trong nhà, sống chết có nhau ”, ông Đ.
Nhắc đến những kỷ niệm giữa gia đình, người dân nơi đây với lãnh đạo nước bạn Lào, ông Tráng Lao Lử cho biết, có rất nhiều kỷ niệm và những kỷ niệm đó đặc biệt trân quý. Đối với anh Lả cũng vậy, đó là những lần anh theo cha đi mang cơm vào rừng cho ông Kaysone Phomvihane. Hay như năm 1951, Chỉ huy trưởng Ban xung phong Lào – Bắc liên lạc với ông Tráng Lao Khô. Khi đó, ông Kho đưa 50 đồng bạc trắng cho người liên hệ hỗ trợ mua vũ khí. Sau khi mua súng, ông Kaysone có biên nhận gửi ông Zhuang Lao Khô và gia đình vì đã ủng hộ cách mạng Lào. Ông Zhuang Lao Lu cho biết: “Sau này biên lai đó bị hư hỏng hoàn toàn, nhưng mối quan hệ của gia đình tôi với ông ấy không bao giờ phai nhạt”.
Ông Tráng Lao Lả cũng cho biết, ngôi nhà trên sườn đồi hiện nay cũng do ông Kaysone Phomvihane cho. Đó là cuối năm 1948, bốn cán bộ Việt Minh hoạt động từ Lào sang đây, một người bị bệnh nặng. Đoàn đi được mấy ngày thì người nhà cũng lần lượt đổ bệnh; hóa ra bị nhiễm bệnh đậu mùa. Ông Kaysone nói rằng ông đã mắc bệnh và cần phải di chuyển. Sau đó anh và ông Lao Khô đi chọn đất để chuyển nhà. Tìm lần cuối chọn một mảnh đất ở lưng đồi, dưới chân đồi có một con suối, cách chỗ cũ hai cây số để làm nhà. Thấy gia đình anh ta chuyển đi, ba dòng họ cũng di chuyển theo, dần dần hình thành làng xã. Vì lẽ đó, đến năm 1962, làng đổi tên thành làng Lao Khô từ đó cho đến nay.
Qua câu chuyện của anh Tráng Lao Lả và theo những cứ liệu lịch sử có thể khái quát được, thực hiện chỉ đạo của Bộ Tổng Tư lệnh, Bộ Tư lệnh Liên khu 10, tỉnh Sơn La đã trở thành điểm dừng chân và hướng tiến của nước Lào- Ban xung phong Bắc Lào từ năm 1948 đến năm 1950. Ban này có nhiệm vụ chính là góp phần giúp lực lượng kháng chiến ở Lào xây dựng căn cứ địa cách mạng ở 4 tỉnh Bắc Lào, với trung tâm là huyện Xiengkhor. , Tỉnh Xamneua (nay là tỉnh Houaphanh, Lào). Trong thời gian này, ông Kaysone Phomvihane được bố trí đến ở tại nhà ông Tráng Lao Khô ở bản Phiêng Sa. Ông Lao Khô còn tích cực vận động bà con bản Phiêng Sa giúp đỡ ông Kaysone Phomvihane và các đội du kích hoạt động trên địa bàn …
Có thể thấy, tình cảm của gia đình ông Tráng Lao Khô đối với vị lãnh tụ Lào không chỉ là tình cảm đặc biệt của hai gia đình mà còn là biểu tượng của tình đoàn kết hai dân tộc, hai đất nước. Cũng chính vì lẽ đó, năm 2017, tại Lễ Khánh thành Khu di tích này, Chủ tịch Quốc hội Lào Pany Yathotou đã bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với sự giúp đỡ to lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam. to lớn, hiệu quả, kịp thời đối với sự nghiệp cách mạng Lào từ thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây đến xây dựng và phát triển đất nước ngày nay. Việc đưa Khu di tích vào sử dụng sẽ góp phần quan trọng vun đắp mối quan hệ hữu nghị truyền thống, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa hai nước.
Di sản cho các thế hệ sau
Ghi nhận tình cảm đặc biệt, từ truyền thống đoàn kết, tin cậy, kề vai sát cánh giữa hai dân tộc, đến tình hữu nghị mẫu mực hiếm có và hợp tác chiến lược toàn diện giữa hai nước hiện nay, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Tình đoàn kết, hợp tác giúp đỡ lẫn nhau giữa Việt Nam và Lào là quy luật khách quan, là nhân tố sống còn của mỗi Đảng, mỗi nước; đồng thời là tài sản chung vô giá và là nền tảng để hai nước chúng ta cùng nhau phát huy trong những giai đoạn lịch sử tiếp theo. Việt Nam và Lào không chỉ là hai nước láng giềng, mà là hai nước anh em, đồng chí.
Ở bên kia dãy Trường Sơn, cùng chung tình cảm thủy chung son sắt, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Thounglun Sisoulith khẳng định: “Hơn bao giờ hết, chúng ta cần tiếp tục giữ gìn và phát triển mối quan hệ hữu nghị Việt Nam-Lào-Việt Nam. sáng ngày càng vững chắc, tươi đẹp, trở thành di sản cho các thế hệ mai sau, giữ gìn mối quan hệ là trách nhiệm và nghĩa vụ cao cả, đáp lại những hy sinh to lớn và mục tiêu kiên cường của ông cha ta để lại ”.
Nhìn lại thực tế kết quả hợp tác giữa hai nước thời gian qua, có thể thấy, tình cảm sâu nặng giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước đã được truyền tải trọn vẹn.
Trong những ngày hai nước anh em trên dải Trường Sơn hướng tới kỷ niệm 60 năm quan hệ hữu nghị đặc biệt này, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước CHDCND Lào Sengphet Houngboungnuang khẳng định: Mặc dù tình hình khu vực và quốc tế. tình hình có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, nhưng mối quan hệ trong sáng, gắn bó giữa Lào và Việt Nam chưa bao giờ phai nhạt mà ngày càng được đẩy mạnh và đi vào chiều sâu, ngày càng hiệu quả. lợi ích thiết thực cho nhân dân hai nước.
Quan hệ chính trị, quốc phòng – an ninh, ngoại giao giữa Lào và Việt Nam không ngừng được nâng cao, có sự phối hợp nhịp nhàng trong việc duy trì thành quả cách mạng, hợp tác chặt chẽ tại các diễn đàn khu vực. và quốc tế, đóng góp tích cực vào hòa bình và hợp tác ở khu vực và trên thế giới.
Các lĩnh vực hợp tác như thương mại, đầu tư, giáo dục, văn hóa,… phát triển không ngừng. Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tư nhiều nhất vào Lào. Sinh viên Lào học tập tại Việt Nam ngày càng tăng và được quan tâm đào tạo, giảng dạy tốt. Tất cả là những nguồn lực quý báu đối với nhân dân Lào trong sự nghiệp giữ gìn, bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ mới.
Theo Tham tán kiêm Phó Đại sứ Lào tại Việt Nam Chanthaphone Khammanichanh, Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tư vào Lào với số vốn khoảng 5,4 tỷ USD trong các lĩnh vực như thủy điện, khoáng sản, nông nghiệp. , du lịch … Các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư vào Lào không chỉ tính đến lợi nhuận kinh tế mà còn xây dựng các dự án hỗ trợ và nâng cao đời sống của người dân Lào như: xây dựng trường học, bệnh viện, thủy lợi … Năm 2021, mặc dù COVID -19 dịch bệnh ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến hai nước, kim ngạch thương mại hai chiều vẫn đạt khoảng 1,3 tỷ USD, tăng 33,8% so với cùng kỳ. kỳ của năm trước.
Lào cũng tăng cường xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ lực sang Việt Nam như gạo, cà phê, mủ cao su, chuối, đường, dưa hấu …, ngày càng đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng Việt Nam. Hiện nay, hai nước đang tiếp tục thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội do Chính phủ hai nước đề ra, nhất là sau Đại hội lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đại hội lần thứ XI của Đảng Nhân dân Cách mạng. Nước Lào. Quan trọng hơn, hai nước đã xác định chiến lược phát triển và kết nối giao thông, trong đó có chiến lược phát triển tuyến cao tốc Viêng Chăn – Hà Nội, được coi là huyết mạch của tình hữu nghị, kết nối khu vực và thế giới. hợp tác quốc tế theo hướng hợp tác bền vững, đồng thời thúc đẩy phát triển hành lang kinh tế Đông Tây nhằm thúc đẩy, khuyến khích phát triển du lịch – lĩnh vực mà hai nước đều có thế mạnh và tiềm năng.
Ở một khía cạnh khác không kém phần quan trọng, mảnh đất nuôi dưỡng mối quan hệ Việt – Lào ngày càng được vun đắp bởi nghĩa tình bình dị mà sâu sắc. Như nhận xét của Trung tướng Nguyễn Tiến Long, Phó Chủ tịch Trung ương Hội Hữu nghị Việt Nam – Lào: “Không phải bây giờ mà trong lịch sử hàng nghìn năm, dù xung quanh chúng ta có biết bao xương máu chiến sĩ nhưng riêng của hai dân tộc của Việt Nam – Lào, đặc biệt là hai bên biên giới dài hơn 2.300 km, từ ngàn đời nay, nhân dân các dân tộc vẫn truyền nhau nếp sống hữu nghị, thân thiện, hợp tác, giữ gìn, kính trọng, thờ phụng và tiếp nối những điều tốt đẹp của ông cha để lại.Tìm hiểu quan điểm mới của hai Đảng, hai Nhà nước về ý nghĩa của tình đoàn kết và thời đại, nhân dân hai nước luôn có vốn liếng vô cùng quý giá, đó là tâm hồn, đó là tình hữu nghị. , đó là văn hóa. văn hóa của hai dân tộc ”.
Tất cả tình cảm ấy như lời nhắn nhủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong 4 câu thơ mà Người đọc trong lễ tiễn biệt Quốc vương Lào Sisavang Vatthana và các vị khách quý tại sân bay Gia Lâm ngày 13/3/1963: “Thương nhau mấy núi cũng trèo , sông mấy cũng lội, mấy đèo cũng qua; Việt – Lào hai nước ta; tình sâu hơn Hồng Hà, Cửu Long ”.
Ngày 25/5/1971, khi sang thăm Việt Nam, Chủ tịch Souphanouvong đã nói: “Tình đoàn kết Lào – Việt Nam cao hơn núi, dài hơn sông, rộng hơn biển, đẹp hơn trăng rằm, thơm hơn bất cứ thứ gì khác. Hoa nào thơm nhất?